Câu 1: Trình bày nội dung
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất? Liên hệ với quá trình phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
* Khái niệm:
- Quan hệ sản xuất:
Là quan hệ giữa
người với nguời trong quá trình sản xuất( Sản xuất và tái xuất xã hội).
Quan hệ sản xuất bao
gồm: Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quan hệ tổ chức và quản lý quá trình
sản xuất quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó. Những quan
hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn
nhau trên cơ sở quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
- Lực lượng sản xuất:
Là phương thức kết
hợp giữa người lao động với tư liiêụ sản xuất, tri thức năng lực, kỹ năng kinh
nghiệm của họ tạo ra một sức sản xuất trong sản xuất vật chất.
Lực lượng sản xuất
bao gồm tư liệu sản xuất và người lao động với trình độ tri thức, kỹ năng, kinh
nghiệm sản xuất và thói quen lao động,
Lực lượng sản xuất là những nhân tố có tính
sáng tạo và tính sáng tạo đó có tính lịch sử. Các yếu tố của lực lượng sản xuất
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó người lao động giữ vai trò quyết định,
công cụ lao động thể hiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
* Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất
Đây là quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển của xã
hội loài người. Nó được thể hiện:
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan
hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
- Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất tuân theo quy tắc khách quan. Quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực
trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định:
bởi vì quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế- xã hội của quá trình sản
xuất, còn lực lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.
- Tuy nhiên, quan hệ sản xuất với tư cách là hình thức kinh
tế - xã hội của quá trình sản xuất, nó luôn luôn có khả năng tác động trở lại
sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động này có thể diễn ra
theo chiều hứong tích cực hoặc tiêu cực của quan hệ sản xuất với thực trạng và
nhu cầu khách quan của sự vận động, phát triển lực lượng sảnxuất. Nếu “phù hợp”
sẽ có tác dụng tích cực và ngược lại.
- Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
mối quan hệ thống nhất có bao hàm khả năng chuyển hoá thành các mặt đối lập và
phát sinh mâu thuẫn.
- Mối quan hệ giữ lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
mối quan hệ mâu thuẫn biện chứng giữa nội dung vật chất, kỹ thuật với hình thức
kinh tế- Xã hội của quá trình sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này là một
quá trình đi từ sự thống nhất đến những khác biệt và đối lập xung đột từ đó làm
xuất hiện nhu cầu khách quanphải được giải quyết theo nguyên tắc quan hệ sản
xuất phải phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận động của mâu
thuẫn này cũng phải tuân theo quy luật. Từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại. quy luật “phủ định của phủ định” khiến
cho quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội diễn ra với tính chất tuần tự
và vượt qua của nó ở trình độ ngày càng cao hơn.
*
Liên hệ với quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
- Đó là sự vận dụng quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở
nước ta.
- Nước ta
lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước
nông nghiệp lạc hậu, do đó xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa là
một quá trình lâu dài và đầy khó khăn, phức tạp. Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ,
lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc
hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ và có những yếu tố đi
quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Tình hình thực tế của nước ta đòi hỏi phải coi
trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ
lên quy mô lớn. Để xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ
trương xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh
tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế của chủ
nghĩa xã hội. Từng bước xã hội hoá xã hội chủ nghĩa, quá trình đó được thực
hiện không phải bằng gò ép mà được thực hiện từng bước thông qua sự hỗn hợp các
hình thức sở hữu như công ty cổ phần, chủ nghĩa tư bản nhà nước, các hình thức
hợp tác xã v.v. để dần dần hình thành các tập đoàn kinh doanh lớn, trong đó các
đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể là nòng cốt. Chúng ta chỉ bỏ qua những gì
của xã hội cũ không còn phù hợp với xã hội mới thay thế và không đem lại hiệu
quả kinh tế - xã hội cao hơn; chúng ta chủ trương thực hiện sự chuyển hoá cái
cũ thành cái mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Câu 2: Trình bày mối quan hệ
biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng? Liên hệ với việc xây dựng cơ sở
hạ tầng ở Việt Nam hiện nay?
* Khái niệm:
- Cơ sở hạ
tầng :
Là tổng hợp các quan hệ sản xuất hợp thành kết cấu kinh tế của một xã hội nhất
định. Cơ sở hạ tầng bao gồm quan hệ sản xuất thống trị; quan hệ sản xuất tàn
dư; quan hệ sản xuất mầm mống, tồn tại thực trong một kết cấukinh tế của một xã
hội cụ thể. Đặc trưng cho tính chất của một cơ sở hạ tầng do quan hệ sản xuất
thống trị quy định. Tức là, cái giữ địa vị chi phối, có vai trò chủ đạo và tác
dụng quyết định đối vớii toàn bộ cơ sở hạ tầng là quan hệ sản xuất thống
trị.Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và mầm mống cũng có vai trò quan trọng.
- Kiến
trúc thượng tầng: Là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết học,
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật... với những thiết chế tương ứng như nhà nước,
đảng phái, giáo hội, các đòn thể, hiệp hội được hình thành trên một cơ sở hạ
tầng nhât định.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có
những đặc điểm riêng, nhưng liên hệ, tác động , ảnh hưởng lẫn nhau và cùng nảy
sinh trên một cơ sở hạ tầng nhất định, phản ảnh cơ sở hạ tầng đó. Trong đó, nhà
nước là một thiết chế có vai trò đặc biệt quan trọng. Chính nhờ nhà nước là một
thiết chế có vai trò đặc biệt quan trọng. Chính nhờ nhà nước mà tư tưởng của
gia cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội.
Kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp
đối kháng bao gồm hệ tư tưởng và thiết chế của gia cấp thống trị; tàn dư của
các quan điểm chính tri- xã hôi của giai cấp trõngã hội cũ; các quan điểm và
thiết chế của giai cấp mới ra đời. Tất nhiên, hệ tư tưửong của gia cấp thống
trị giữ vai trò quy định tính chất của kiến trúc thượng tầng. Tính gia cấp của
kiến trúc thượng tầng thể hiện rõ ở sự đối lập về quan điểm, tư tưởng và cuộc
đấu tranh về chính trị- tư tưởng của giai cấp đối kháng. Mâu thuẫn trong kiến
trúc thượng tầng, cũng bắt nguồn từ mâu thuẫn trong cơ sở hạ tầng.
* Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng:
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng:
Cơ sở hạ tầng nào thì sẽ “sinh” ra kiến trúc
thượng tầng như thế ấy.Bởi lẽ, quan hệ sản xuất quyết định các quan hệ xã hội
khác. Mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, quyết định mâu thuẫn
trong lĩnh vực chính trị - tư tưởng. Cuộc đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực tư
tưởng là biểu hiện của những đối kháng trong đời sống kinh tế.
- Cơ sở hạ tầng quyết định sự hình thàng, tính
chất của kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng
biến đổi, sớm hay muộn cũng dẫn đến những biến đổi của kiến trúc thượng tầng.
Sự quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng diễn ra phức tạp
trong quá trình chuyển từ hình thái kinh tế- xã hội này sang hình thái kinh tế -
xã hội khác.
* Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng
đối với cơ sở hạ tầng:
- Sự tác động
của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện ở chức năng xã hội của
nó. Nghĩa là, kiến trúc thượng tầng thực hiện sự bảo vệ, duy trì, củng cố, phát
triển cơ sở hạ tầng đã “sinh” ra nó; hoặc đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng, cũng
như kiến trúc thượng tầng cũ.
- Các bộ phận
khác nhau của kiến trúc thuợng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng dưới nhiều
hình thức khác nhau. Bản thân các yếu tố, các bộ phận của kiến trúcthượng tầng
cũng tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng theo
hai hướng hoặc là kìm hãm, hoặc là thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng.Khi
kiến trúc thượng tầng tác động cùng chiều với
các quy luật kinh tế khách quan, nó sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển.
Ngược lai, sẽ kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
* Liên hệ với việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở
Việt Nam hiện nay?
- Nuớc ta đang phát triển kinh tế nhiều thành phần
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghĩa là cơ sở hạ tầng của nước ta hiện nay là kết
cấu kinh tế nhiều thành phần. Trong đó, kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã
đóng vai trò chủ đạo. Với một cơ sở hạ tầng mang tính chất quá độ và một kết
cấu kinh tế đan xen nhiều thành phần thì kiến trúc thượng tầng cũng phải xây
dựng, củng cố, đổi mới cho phù hợp với cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng
quyết định kinh tế thượng tầng vì vậy muốn đưa đất nước phát triển, khi vạch ra
các đường lối chính sách trước hết phải xuất phát từ các quan hệ kinh tế.
- Đẩy mạnh
phát triển cơ sở hạ tầng, phải đẩy mạnh các quan hệ sản xuất phát triển, quan
hệ sản xuất cũ, quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tương lai.
Từ đại hôi VI
của Đảng chúng ta đã chuyển kinh tế đất nước từ chế độ tập trung, bao cấp sang
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kiến trúc
thượng tầng trở lại với cơ sở hạ tầng thông qua vai trò lãnh đạo của nhà nước
vì vậy trong hoạt động thực tiễn khi triển khai các đường lối, chính sách phải
phù hợp, khoa học, phải coi trọng vai trò chính trị, tính năng động sáng tạo
của chínhh trị trong việc vận dụng vào các quy luật kinh tế khách quan. Tuyệt
đối hoá một mặt nào đó cũng dẫn tới sai lầm.
Câu 3: Vì sao sự phát triển của các
hình thái kinh tế- xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên? Liên hệ với quá trình
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
* Phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội
là quá trình lịch sử tự nhiên là vì:
- Hình
thái kinh tế - xã hội: Là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ
một xã hội cụ thể trong một giai đoạn phát triển lịch sử nhât định, với những
quan hệ sản xuất đặc trưng của nó phù hợp với lực lượng sản xuất ở một trình độ
phát triển nhất định và một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên những quan
hệ sản xuất đó.
- Hình thái
kinh tế - xã hội có kết cấu phức tạp nhưng gồm các yếu tố cơ bản nhất là lực
lượng sản xuất, các quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Ba yếu tố này có
liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, trong đó:
+ Quan hệ sản
xuất là “bộ xương”, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt hình thái kinh tế -
xã hội này với hình thái kinh tế - xã hội khác. Nó đóng vai trò chi phối và
quyết định các mối quan hệ khác của xã hội.
+ Lực lượng
sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình tái kinh tế - xã hội. Sự
phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, xét đến cùng là do lwjc lượng
sản xuất quyết định.
+ Kiến trúc
thượng tầng: tổng thể các quan hệ sản xuất của một xã hội cụ thể sẽ hợp thành
cơ sở hạ tầng của xã hội đó, mà trên đó hình thành một kiểu kiến trúc thượng
tầng, tương ứng. Chức năng chính trị - xã hội của kiến trúc thượng tầng này là
duy trì, bảo vệ, phát triển cơ sở hạ tầng đã “sinh” ra nó, đấu tranhchống lại
cơ sở hạ tầng cùng kiến trúc thượng tầng cũ.
Ngoài ba yếu tố cơ bản trên, khi xem xét một
hình thái kinh tế - xã hội cần phải chú ý tới các yếu tố khác như quan hệ giai
cấp, dân tộc, gia đình, quốc tế...
- Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội là một quá trình lịch sử tự nhiên:
+ Sự thay thế
nhau và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử từ thấp lên
cao là do những quy định khách quan chi phối, không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người.
+ Nguồn gốc
của sự vận động phát triển của các hinh thái kinh tế - xã hội ở chính trong
lòng nó. Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; mâu thuẫn
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; mâu thuẫn giữa các giai cấp trong
xã hội có giai cấp...Giải quyết các mâu thuẫn trên đã làm cho lịch sử phát
triển của xã hội trải qua các giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp lên cao. Tương
ứng với mỗi giai đoạn đó là một hình thái kinh tế - xã hội. Như vậy, sự vận
động thay thế nhau của các hình thái kinh tế- xã hôi là quá trình lịch sử - tự
nhiên, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
* Liên hệ với quá trình phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn kiên trì đường lối gắn
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Với xuất phát điểm thấp, đất nước chưa
trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội là chúng
ta đã lựa chọn con đường phát triển”rút ngắn”, “bỏ qua”. Đó là sự lựa chọn đúng
đắn, không những đáp ứng khát vọng của nhân dân lao động, mà còn phù hợp với xu
thế phát triển của thời đại.
- Trước thời
kỳ đổi mới, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa do chúng ta mắc phải những lệch
lạc, sai lầm chủ quan duy ý chí nên đất nước đã rơi vào tình trạng trì trệ,
khủng hoảng, tình thế đó đó đã đòi hỏi cúng ta phải tiến hành đổi mới một cách
toàn diện.
+ Trước hết,
phải có tư duy đúng đắn về sự phát triển “bỏ qua”. Với phát điểm thấp, nuớc ta
không thể quá độ trực tiếp để đi lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy bỏ qua chế độ Tư
bản chủ nghĩa ở Việt nam chỉ là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa; còn những thành tựuđạt
được dưới chủ nghĩa tư bản đặc biệt là khoa học, công nghệ thi chúng ta tiếp
thu kế thừa.
+ Thứ hai phải
phát huy vai trò nhân tố chủ quan, khai thác triệt để những điều kiện khách
quan để đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 4: Phân tích định nghĩa
giai cấp của V. I. Lênin? Nguồn gốc của sự xuất hiện giai cấp?
* Định nghĩa giai cấp của V.I Lênin:
- Người ta gọi
là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ
trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan
hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa
nhận), đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao
động; và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội
ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.
Giai cấp là
những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập
đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế
xã hội nhất địn.
Như vậy, giai cấp có những đặc trưng cơ bản
chung. Đó là những tập đoàn người to lớn khác nhau về địa vị trong hệ thống sản
xuất xã hội. Cụ thể là:
+ Khác nhau về
quan hệ đối với tư liệu sản xuất.
+ Khác nhau về
vai trò trong tổ chức lao động xã hội, trong tổ chức quản lý sản xuất.
+ Khác nhau về
cách thức và quy mô thu thập của cải xã hội. Trong đó, sự khãc nhau về quan hệ
đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định địa vị của giai cấp trong hệ
thống sản xuất xã hội.
Tóm lại, sự khác nhau giữa các tập đoàn
người về địa vị trong một chế độ kinh tế- xã hội tất yếu dẫn đến tập đoàn này
có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác. Đó là bản chất của quan hệ giai
cấp đối kháng.
- Từ sự khác
nhau về ba quan hệ kinh tế nêu trên, các giai cấp sẽ có sự khác nhau về lối
sống, tâm lý xã hội, hệ tư tưởng là những yếu tố phát sinh từ các quan hệ kinh
tế, phụ thuộc vào các quan hệ kinh tế này.
- Nếu giai cấp
gắn liền và trực tiếp tham gia vào một hệ thống sản xuất xã hội nhất định thì
tầng lớp không tham gia trực tiếp vào hệ thống, sản xuất xã hội.
- Quan niệm về
gia cấp của chủ nghĩa Mác- Lênin mà thể hiện tiêu biểu là định nghĩa về giai
cấp của Lênin cho tới nay vẫn giữ nguyên ý nghĩa lý luận, thực tiễn và khoa
học. Nó cho ta cơ sở khoa học để phân bịêt các giai cấp; phân tích quan hệ giai
cấp trong liên minh hoặc đấu tranh gia cấp. Đồng thời, nó bác bỏ mọi quan niệm
sai lầm chưa khoa học khác về giai cấp.
* Nguồn gốc của sự xuất hiện giai cấp:
- Trong xã hội có nhiều nhóm xã hội khác nhau. Sự
khác nhau ấy được phân biệt bởi những đặc trưng khác nhau như giới tính, nghề
nghiệp, chủng tộc, dân tộc...Những khác biệt ấy tự nó không tạo ra sự đối lập
về mặt xã hội. Chỉ có những giai cấp xuất phát từ sự khác nhau căn bản về lợi
ích mới tạo ra những xung đột xã hội mang tính chất đối kháng. C.Mác chỉ ra rằng:
sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất
định của sản xuất. Sự phân chia xã hội thành giai cấp truơc hết là do nguyên
nhân kinh tế.
- Do xã hội
cộng sản nguyên thuỷ tan rã dần và cuối cùng đã xuất hiện các xã hội có giai
cấp đối kháng.
- Nguồn gốc
sâu xa của sự ra đời các giai cấp trong xã hội là sự phát triển của lực lượng
sản xuất, còn nguồn gốc trực tiếp của nó là chế độ tư hữu. Sự xuất hiện của chế
độ tư hữu cũng là một yếu tố khách quan, do mâu thuẫn giữa nhu cầu vật chất mỗi
khi đã có của dư tương đối và khả năng của nền sản xuất cuối thời đại công xã
nguyên thuỷ không đủ đáp ứng được nhu cầu ấy cho mọi thành viên của xã hội.
Câu
5: Thực chất của đấu tranh giai cấp? Vấn
đề đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay?
* Khái niệm:
-
Theo Lênin: “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của 1 bộ phận nhân dân này chống 1
bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao
động, chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh
của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu
sản hay giai cấp tư sản”. Như vậy cuộc đấu tranh giai cấp thực chất là cuộc đấu
tranh giữa các giai cấp, các tập đoàn người có lợi ích cơ bản, tức lợi ích kinh
tế đối lập nhau không thể điều hòa được.
- Trong quá trình đấu tranh giai cấp, mỗi giai cấp đều tập hợp những lực lượng,
những giai cấp và những tầng lớp khác nhau trong xã hội về phía mình. Sự tập
hợp các giai cấp khác nhau để phấn đấu cho mục tiêu chung là liên minh giai
cấp.
-
Đấu tranh giai cấp là 1 trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp.
Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính xã hội
hóa ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất mâu thuẫn với quan hệ chiếm hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diễn xã hội:
mâu thuẫn giữa 1 bên là giai cấp cách mạng tiến bộ, đại diện cho phương thức
sản xuất mới với 1 bên là giai cấp thống trị, bóc lột, đại biểu cho những lợi
ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất tự nó không giải quyết được, mà phải thông qua cuộc
đấu tranh của giai cấp bị trị lật đổ giai cấp thống trị, sau đó mới xóa bỏ được
quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới cho phù hợp với trình độ mới
của lực lượng sản xuất. Với ý nghĩa ấy đấu tranh giai cấp được coi là động lực
trực tiếp của sự phát triển lịch sử. Đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp tất
yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế phương thức sản xuất cũ bằng 1 phương
thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất mới ra đời mở ra địa bàn
mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Sản xuất phát triển sẽ là động lực
thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội.
- Đấu
tranh giai cấp chẳng những có tác dụng cải tạo xã hội, xóa bỏ các lực lượng xã
hội phản động, kìm hãm xã hội phát triển mà còn có tác dụng cải tạo bản than
các giai cấp cách mạng. Thông qua đấu tranh giai cấp mà các lĩnh vực văn hóa,
tư tưởng, nghệ thuật, đạo đức,… của xã hội được phát triển. Trên cơ sở đó thúc
đẩy xã hội phát triển.
- Đấu
tranh giai cấp là quy luật chung của mọi xã hội có giai cấp. Nhưng trong quy
luật ấy có những biểu hiện đặc thù trong từng xã hội cụ thể. Điều đó do kết cấu
giai cấp của mỗi xã hội và do địa vị lịch sử của mỗi giai cấp cách mạng trong
từng phương thức sản xuất quyết định.
- Đấu
tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản, bản thân nền chuyên chính
vô sản này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới xã hội
không có giai cấp.
* Vấn đề đấu tranh giai cấp trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay:
-
Ở Việt Nam thì đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là tất
yếu. Bởi lẽ ở nước ta hiện nay vẫn còn những lực lượng đi ngược lại lợi ích của
dân tộc, của nhân dân, của cách mạng, của Đảng. Chúng ta đang trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội trong đó có cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái
cách mạng, tiến bộ và cái bảo thủ, trì trệ,… nên đấu tranh giai cấp là tất yếu.
- Thực
chất đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay là đấu tranh chống khuynh hướng tự
phát phát triển tư bản chủ nghĩa và các thế lực thù địch đối với độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Nội
dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội,
chống áp bức bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành
động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống
phá các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành 1 nước
XHCN phồn cinh, nhân dân hạnh phúc. Đồng thời, Đảng ta cũng khẳng định: động lực
chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh
giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các
lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các
thành phần kinh tế toàn xã hội.
Câu
6: Trình bày nguồn gốc, bản chất của nhà
nước? Đặc điểm của nhà nước vô sản? Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam hiện nay?
* Nguồn gốc của nhà nước:
- Xã hội cộng sản nguyên thủy không có giai cấp, nhà nước cũng chưa xuất
hiện. Đứng đầu các thị tộc, bộ lạc – những tổ chức xã hội thời kỳ này là những
tộc trưởng, hội đồng các tộc trưởng. Đó là những cơ quan quản lý xã hội còn rất
đơn giản và mang tính tự quản.
- Nhà
nước ra đời và tồn tại khi trong xã hội phân chia thành giai cấp và xuất hiện
những mâu thuẫn giai cấp phát triển đến mức không điều hòa được. Như vậy trước
khi giai cấp ra đời thì không thể có nhà nước.
- “Nhà
nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa
được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại,
sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể
điều hòa được”.
* Bản chất của nhà nước:
- Nhà nước xuất hiện và tồn tại không phải do
ý muốn chủ quan của 1 cá nhân hay 1 giai cấp nào mà sự xuất hiện của đó là 1
tất yếu khách quan để “khống chế những đối kháng giai cấp” để làm “dịu” xung
đột giai cấp, làm cho xung đột giai cấp diễn ra trong vòng “trật tự”, trật tự
ấy hoàn toàn cần thiết để duy trì chế độ kinh tế, trong đó giai cấp này bóc lột
giai cấp khác.
- Giai cấp lập ra và sử dụng nhà nước phải là giai cấp mạnh nhất, giai cấp giữ
địa vị thống trị về mặt kinh tế. Nhờ có nhà nước, giai cấp này trở thành giai
cấp thống trị về mặt chính trị. Do đó, bản chất của nhà nước là quyền lực chính
trị của giai cấp thống trị về kinh tế.
- Nhà
nước là công cụ thống trị chính trị giai cấp, nhưng trong thực tế, nó lại tồn
tại như 1 công quyền, 1 quyền lực công cộng. Vì vậy, nhà nước không chỉ mang
tính giai cấp, mà còn mang tính xã hội; không chỉ có chức năng thống trị giai
cấp mà còn có những chức năng xã hội. Hơn nữa, chức năng xã hội còn là cơ sở
cho sự thống trị chính trị.
* Đặc điểm của nhà nước vô sản
Là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử, nhà
nước vô sản có những đặc trưng cơ bản của nhà nước nói chung – công cụ trấn áp
của 1 giai cấp với 1 giai cấp khác. Song, “chuyên chính” không phải là đặc
trưng duy nhất của kiểu nhà nước này. Nhà nước vô sản có các đặc trưng khác với
nhà nước của giai cấp bóc lột.
- Một là: Lần đầu tiên trong lịch sử xuất hiện 1 nhà nước của dân, do dân và vì
dân, thể hiện qua nguyên tắc tổ chức, cơ chế hoạt động và pháp luật nhà nước.
Cơ sở xã hội và nòng cốt của nhà nước vô sản là lien minh công nhân, nông dân,
trí thức, tức liên minh giữa các giai cấp, tầng lớp lao động, trong đó giai cấp
công nhân đóng vai trò lãnh đạo thông qua đội tiên phong chính trị của mình.
Trong nhà nước vô sản, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, không những làm chủ
về chính trị mà nhân dân lao động còn làm chủ về kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Hai là: Lần đầu tiên trong lịch sử ra đời 1 nhà nước mà chức
năng của nó không phải là bạo lực trấn áp mà là tổ chức xây dựng, phát triển xã
hội. Lênin chỉ rõ rằng: “Chuyên chính vô sản…không phải chỉ là bạo lực đối với
bọn bóc lột, và cũng không phải chủ yếu là bạo lực” mà chủ yếu là thực hiện
được kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư bản.
Với
2 đặc điểm trên, nhà nước vô sản không còn là nhà nước theo nguyên nghĩa mà là
nhà nước “nửa nhà nước”.
* Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam hiện nay
- Nhà nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở Việt Nam là “Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà
nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành
pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường
pháp chế XHCN”.
- Việc
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam
là 1 tất yếu khách quan. Tính tất yếu đó không chỉ bắt nguồn từ đặc điểm của
thời đại ngày nay mà còn xuất phát từ thực tế và đòi hỏi của cách mạng Việt Nam
“muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản”.
- Đây
là 1 quá trình lâu dài, gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo
định hướng XHCN. Trong điều kiện nước ta hiện nay, áp đặt 1 chế độ dân chủ XHCN
đầy đủ là không phù hợp. “ Phát huy dân chủ đến cùng” không phải là sự áp đặt 1
hình thức dân chủ cao trong điều kiện kinh tế và dân trí còn thấp kém, mà là
“tìm kiếm”, “thử nghiệm” và xây dựng những thiết chế, cơ chế nhà nước phù hợp
với điều kiện hiện nay, nhằm thực hiện 1 cách hữu hiệu quyền dân chủ, quyền làm
chủ của nhân dân.
- Trong
đổi mới, Đảng ta chủ trương dân chủ hóa xã hội, dân chủ hóa tổ chức và phương
thức hoạt động của Nhà nước. Chủ trương đó không chỉ phản ánh đòi hỏi tất yếu
khách quan của quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN từ 1
đất nước chưa trải qua chế độ dân chủ tư sản, mà còn bắt nguồn từ yêu cầu phải
khắc phục tình trạng thiếu dân chủ và dân chủ còn mang nặng tính hình thức
trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta.
- Bước
vào đổi mới, nhận thức của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền ngày càng đầy đủ, rõ
ràng, cụ thể hơn và quyết tâm xây dựng nhà nước XHCN dưới hình thức nhà nước
pháp quyền cũng càng ngày cao hơn.
+ Tại Đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ VI, trong chủ
trương đổi mới nhà nước đã manh nha 1 số nội dung về nhà nước pháp quyền. Khẳng
định “quản lý đất nước bằng pháp luật chứ không chỉ bằng đạo lý”. “Phải quan
tâm xây dựng pháp luật”
+ Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, bổ sung
thêm nội dung: “Nhà nước Việt Nma thoosnh nhất 3 quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp, với sự phân công rành mạc 3 quyền đó”.
+ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
(1994) chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta chính thức được
khẳng định.Thuật ngữ Nhà nước pháp quyền lần đầu tiên được chính thức sử dụng
trong Văn kiện quan trọng của Đảng.
Xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế đối với
nước ta là điều mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc phải làm,
vừa tìm tòi vừa rút kinh nghiệm. Vì vậy cần thận trọng trong quyết định cũng
như trong việc tiến hành thực hiện.
+ Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Đảng coi xây dựng Nhà nước pháp
quyền như 1 trong 5 quan điểm cần quán triệt trong việc tiếp tục cải cách bộ
máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước CHXHCN Việt Nam.
+ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng coi xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng là 1 nhiệm vụ có tính
chiến lược và xuyên suốt, trong “đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà
nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế”.
+ Sau 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đến Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, ĐCS Việt Nam tiếp tục khẳng định “Đẩy mạnh xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN” tập trung vào 3 nội dung lớn:
1.
Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó nhấn mạnh đổi
mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đổi
mới tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương.
2.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu của
tình hình mới.
3.
Tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí,
thực hành tiết kiệm.
- Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng coi việc “tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh
đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”.
Câu
7: Trình bày bản chất, nguyên nhân, vai
trò của cách mạng xã hội? Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách
mạng xã hội?
* Bản chất của cách mạng xã hội:
- Cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất
bước ngoặt và căn bản về chất trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội,
là phương thức chuyển biến từ 1 hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời lên 1 hình
thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Trong xã hội có giai cấp, cách mạng
xã hội là thời kỳ đấu tranh giai cấp quyết liệt nhất. Trong thời kỳ đó, giai
cấp bị trị - đại biểu cho trật tự xã hội mới, lật đổ giai cấp thống trị - đại
biểu cho trật tự xã hội cũ.
+ Cách mạng xã hội được hiểu theo nghĩa rộng là cả 1
thời kỳ lịch sử bắt đầu bằng cuộc cách mạng giành chính quyền và kết thúc khi
chế độ mới, hình thái kinh tế - xã hội mới đã hoàn toàn chiến thắng chế độ cũ,
hình thái kinh tế - xã hội cũ.
+ Cách mạng xã hội theo nghĩa hẹp là việc lật đổ 1 chế
độ chính trị đã lỗi thời, thiết lập chế độ chính trị tiến bộ hơn.
- Dù
theo nghĩa rộng hay hẹp thì việc giành chính quyền vẫn là vấn đề cơ bản của
cách mạng xã hội. Bởi vì chỉ nhờ đó, giai cấp cách mạng mới xác lập được nền
chuyên chính của mình và dung nó làm công cụ tiến hành cách mạng trên các lĩnh
vực khác của đời sống xã hội.
Cần
phân biệt cách mạng xã hội với những biến đổi xã hội khác: tiến hóa xã hội, cải cách xã hội, đảo chính.
- Tiến
hóa xã hội cũng là hình thức phát
triển xã hội, tuy hình thức phát triển xã hội khác nhau nhưng tiến hóa xã hội
và cách mạng xã hội có liên hệ mật thiết với nhau, chúng thống nhất tạo nên sự
phát triển xã hội. Không có quá trình tiến hóa xã hội thì không thể có cách
mạng xã hội, ngược lại, không có cách mạng xã hội thì không thể phát triển xã
hội từ chế độ này sang 1 chế độ khác cao hơn.
- Cách
mạng xã hội cũng khác với cải cách xã hội. Cải cách xã hội
cũng có thể tạo ra những biến đổi về chất, song đó là biến đổi riêng lẻ, bộ
phận. Tuy nhiên cũng có những cải cách mang tính cách mạng và thực chất là cách
mạng. Lại có những cải cách chỉ có tính cải lương, xoa dịu, làm giảm bớt sự
căng thẳng mâu thuẫn. Chủ nghĩa Mác-Lênin không coi thường vai trò của những
cải cách cần thiết, tất yếu, song luôn nhấn mạnh rằng phải đặt cải cách trong
toàn bộ sự nghiệp cách mạng, bắt nó phục vụ sự nghiệp ấy. Kiên quyết đấu tranh
chống chủ nghĩa cải lương vì nó hướng phong trào công nhân vào việc giành những
cải cách trong khuôn khổ chế độ tư bản chủ nghĩa mà từ bỏ đấu tranh giai cấp và
cách mạng xã hội.
- Cũng
cần phân biệt cách mạng xã hội với những cuộc đảo chính. Đảo chính là
thủ đoạn giành quyền lực nhà nước của 1 cá nhân hay 1 nhóm người. Do đó nó
không phải là phong trào cách mạng quần chúng. Những cuộc đảo chính được sắp
đặt bởi chủ nghĩa đế quốc đều mang tính phản cách mạng. Đảo chính chỉ mang ý
nghĩa cách mạng khi nó đi tới hòa nhập với phong trào cách mạng xã hội.
* Nguyên nhân của cách mạng xã hội:
Nguyên nhân kinh tế sâu xa của cách mạng xã
hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản
xuất mang tính cách mạng đang đòi hỏi phải được phát triển với quan hệ sản xuất
đã lỗi thời, đang cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Nguyên
nhân kinh tế sâu xa này biểu hiện về mặt xã hội thành nguyên nhân xã hội trực
tiếp. Đó là mâu thuẫn giữa 1 bên là giai cấp cách mạng và quần chúng lao động -
đại biểu cho sự phát triển lực lượng sản xuất mới, với 1 bên là giai cấp thống
trị nhưng đã lỗi thời, phản động – đại biểu cho quan hệ sản xuất cũ đang cản
trở sự phát triển lực lượng sản xuất.
Các
cuộc cách mạng xã hội đều bắt nguồn từ những nguyên nhân khách quan đó.
* Vai trò của cách mạng xã hội:
-
Cách mạng xã hội nhằm giải quyết mâu thuẫn kinh tế (lực lượng sản xuất – quan
hệ sản xuất) và mâu thuẫn xã hội (giai cấp cách mạng – giai cấp thống trị đã
lỗi thời, phản động). Những mâu thuẫn đó được giải quyết thông qua cuộc đấu
tranh giai cấp và đỉnh cao chính là cách mạng xã hội. Khi giai cấp cách mạng
lật đổ sự thống trị chính trị của giai cấp thống trị, giành lấy chính quyền nhà
nước và sử dụng chính quyền nhà nước để xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, lạc hậu,
xây dựng quan hệ sản xuất mới thúc đẩy lực lượng sản xuất, kinh tế phát triển,
cải biến xã hội phát triển theo hướng tiến bộ.
- Như
vậy, vai trò của cách mạng xã hội là rất to lớn. Không có cách mạng xã hội,
không thể chuyển được hình thái kinh tế - xã hội cũ, lỗi thời lên 1 hình thái
kinh tế - xã hội mới hơn, cao hơn, mở đường cho sự tiến bộ xã hội. Do đó, cách
mạng xã hội là quy luật của sự tiến bộ xã hội.
- Lịch
sử xã hội loài người đã trải qua các quá trình cách mạng xã hội: nguyên thủy –
chiếm hữu nô lệ - phong kiến – tư bản chủ nghĩa – xã hội chủ nghĩa. Lịch sử
càng tiến lên thì đặc trưng và vai trò của quá trình cách mạng xã hội càng trở
nên đầy đủ và rõ rệt.
- Cách
mạng xã hội vô sản là cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất trong lịch sử.
Nếu tất cả các cuộc cách mạng trước chỉ thay thế chế độ tư hữu này bằng chế độ
tư hữu khác, chế độ áp bức bóc lột này bằng chế độ áp bức bóc lột khác thì cách
mạng xã hội chủ nghĩa xóa bỏ mọi hình thức áp bức bóc lột, xóa bỏ sự phân chia
giai cấp mà cơ sở của nó là chế độ tư hữu.
* Điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan của cách mạng xã hội
- Điều kiện khách quan chín muồi cho cách mạng nổ ra được gọi là tình thế
cách mạng, đó là 1 cuộc khủng hoảng toàn quốc, lay chuyển cả giai cấp thống trị
lẫn giai cấp bị trị. Biểu hiện: giai cấp bị trị không muốn sống như cũ nữa,
tính tích cực chính trị được nâng cao, hoàn cảnh buộc họ phải có hành động
chính trị độc lập; mặt khác giai cấp thống trị không thể cai trị theo lối cũ
được nữa, nó phải dùng hình thức cực đoan gây ra sự rối loạn trong toàn xã hội.
Sự xuất hiện hay qua đi của tình thế cách mạng là khách quan, không phụ thuộc
vào ý chí của giai cấp hay chính đảng nào.
- Nhân tố chủ quan: Giai cấp cách mạng có khả năng phát động, lãnh đạo
quần chúng đứng lên lật đổ chế độ cũ, và tính tích cực cách mạng của quần chúng
được nâng lên đến 1 mức độ nhất định. Mặt khác, nhân tố chủ quan cũng có vai
trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển chín muồi của tình thế cách
mạng.
Câu
8: Tính độc lập tương đối của ý thức xã
hội đối với tồn tại xã hội? Ý nghĩa đối với việc xây dựng ý thức xã hội mới ở
Việt Nam hiện nay?
* Tính độc lập tương đối của ý thức xã
hội đối với tồn tại xã hội
Ý thức xã hội không phụ thuộc vào tồn tại xã
hội 1 cách thụ động. Thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức xã hội
có thể tác động trở lại tồn tại xã hội. Trong quá trình phát triển, tuy có chịu
sự quy định của các quy luật của tồn tại xã hội, nhưng ý thức xã hội vẫn có
những quy luật riêng của mình. Triết học Mác-Lênin thừa nhận tính độc lập tương
đối của ý thức xã hội trong quan hệ với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối
của ý thức xã hội biểu hiện ở những điểm sau:
-
Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Ý
thức xã hội là cái phản ánh của tồn tại xã hội, còn tồn tại xã hội là cái được
phản ánh bởi ý thức xã hội. Do vậy, ý thức xã hội với tư cách là cái phản ánh
bao giờ cũng biến đổi chậm hơn so với cái được phản ánh – tồn tại xã hội, nhất
là trong những thời điểm có tính chất bước ngoặt của đời sống xã hội.
Sự lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại
xã hội có nhiều nguyên nhân:
+ Thứ nhất: Do sức ỳ của tâm lý xã hội. Khi tâm lý xã hội trở
thành thói quen, tập quán…thì nó bám rễ tương đối bền vững ở mỗi người, mỗi
nhóm cộng đồng, tầng lớp xã hội,..
+ Thứ 2: Trong ý thức xã hội có những yếu tố bảo thủ (ví dụ
như ý thức tôn giáo phản ánh không đúng và không kịp sự vận động, biến đổi của
xã hội).
+ Thứ 3: Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội luôn gắn với
lợi ích của những nhóm xã hội, tập đoàn xã hội, giai cấp xã hội khác nhau.
Những quan điểm, tư tưởng, tâm lý cũ thường được các lực lượng xã hội, nhím xã
hội, gai cấp xã hội bảo thủ, phản biến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống những
lực lượng xã hội tiến bộ.
-
Ý thức xã hội có thể “vượt trước” tồn tại xã hội.
+ Ý
thức xã hội nếu phản ánh đúng quy luật vận động khách quan của tồn tại xã hội
thì nó có thể phản ánh vượt trước tồn tại xã hội, nó chỉ ra khuynh hướng vận
động, phát triển của tồn tại xã hội, trên cơ sở đó có thể dự báo tương lai, góp
phần chỉ đạo tổ chức thực tiễn đạt hiệu quả cao nhất.
+ Ý
thức xã hội phản ánh đúng được quy luật khách quan của sự vận động, phát triển
của tồn tại xã hội thì sự phản ánh vượt trước của ý thức xã hội đối với tồn tại
xã hội sẽ có cơ sở.
+ Nếu
ý thức xã hội phản ánh không đúng quy luật khách quan của sự vận động, phát
triển của tồn tại xã hội, hơn nữa, nó lại bị chi phối bởi mong muốn chủ quan,
duy ý chí thì khi ấy sự phản ánh vượt trước của ý thức xã hội sẽ là sự vượt
trước không có cơ sở, dễ rơi vào vượt trước ảo tưởng.
Chủ
nghĩa Mác-Lênin tuy ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX từ trong lòng của
chủ nghĩa tư bản, sau được Lênin bổ sung, phát triển trong điều kiện chủ nghĩa
tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, nhưng do phản ánh đúng quy luật
khách quan của sự vận động, phát triển của xã hội tư bản chủ nghĩa, nên đã chỉ
ra khuynh hướng vận động tất yếu của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Do vậy, trong thời đại ngày nay, chủ
nghĩa Mác-Lênin vẫn là thế giới quan, phương pháp luận khoa học chung nhất cho
nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ, cho sự nghiệp cải tạo, xây
dựng CNXH của nhân dân ta.
-
Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình.
Trong quá trình đó, chúng ta phải đứng trên
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối văn hóa của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc tiếp thu, kế thừa những giá trị tinh thần phải
trên quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm lợi ích và quan điểm giai cấp. Đồng
thời phải có thái độ đúng với quá khứ, tránh phủ định sạch trơn cũng như tránh
bê nguyên xi những yếu tố tinh thần của các thời đại trước.
-
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng.
Mỗi hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại
xã hội theo những phương thức riêng của mình. Điều này đã làm cho sự phản ánh
của ý thức xã hội nói chung đa dạng, phong phú, nhưng cũng chính điều đó làm
cho mỗi hình thái ý thức xã hội có “đời sống” riêng và quy luật riêng của mình.
Điều này làm cho các hình thái ý thức xã hội không thể thay thế lẫn nhau, nhưng
lại cần đến nhau, bổ sung cho nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, tác động, thâm nhập lẫn
nhau và cùng nhau tác động đến tồn tại xã hội.
Ở
mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, mà 1 hình thái ý
thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu và đóng vai trò chi phối các hình thái ý
thức xã hội khác.
Trong
xã hội có giai cấp, chính trị có vai trò quan trọng đối với các hình thái ý
thức xã hội khác. Ý thức chính trị tiến bộ của giai cấp tiến bộ sẽ tác động
tích cực, tiến bộ tới nghệ thuật, đạo đức, pháp quyền. Ngược lại ý thức chính
trị lỗi thời của giai cấp lỗi thời, lạc hậu, bảo thủ sẽ có tác động tiêu cực. Ở
Việt Nam hiện nay, nếu xa rời đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, nghệ
thuật, pháp quyền, triết học,... sẽ không tránh khỏi sai lầm trong quá trình
phát triển.
-
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với
tồn tại xã hội theo 2 khuynh hướng cơ bản là tích cực và tiêu cực.
+ Nếu
ý thức xã hội phản ánh đúng quy luật khách quan của sự vận động, phát triển của
tồn tại xã hội thì thông qua hoạt động thực tiễn của con người nó có thể tác
động tích cực trở lại tới tồn tại xã hội, nó thúc đẩy phương thức sản xuất phát
triển, góp phần cải biến điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý theo hướng có
lợi, điều chỉnh dân số và mật độ dân cư phù hợp với điều kiện kinh tế - địa lý,
trên cơ sở đó thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ.
+ Nếu
ý thức xã hội lạc hậu, phản ánh không đúng quy luật khách quan của sự vận động,
phát triển của tồn tại xã hội hoặc ý thức xã hội phản tiến bộ, phản ánh vượt
trước ảo tưởng, duy ý chí,… thì sẽ tác động tiêu cực đến tồn tại xã hội, cản
trở tồn tại xã hội phát triển, cản trở sản xuất vật chất, hủy hoại môi trường
sống tự nhiên, mất cân bằng dân số và mật độ dân cư, kìm hãm sự phát triển xã
hội theo hướng tiến bộ.
Mức
độ, tính chất và hiệu quả tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như: Tính tiến bộ, cách mạng hay lạc hậu, phản động của
chủ thể mang ý thức xã hội tức địa vị lịch sử của giai cấp – chủ thể mang ý
thức xã hội; tính khoa học hay không của ý thức xã hội vào quảng đại quần chúng
nhân dân; năng lực triển khai, hiện thực hóa ý thức xã hội vào hoạt động thực
tiễn của chủ thể lãnh đạo, quản lý.
* Ý nghĩa đối với việc xây dựng ý thức
xã hội mới ở Việt Nam hiện nay
-
Ý thức xã hội mới không hình thành 1 cách tự phát mà hình thành 1 cách tự giác,
lâu dài, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với sự tham gia tích cực của quảng
đại quần chúng nhân dân. Quá trình tự giác, rèn luyện, bồi dưỡng của mỗi cá
nhân cũng như cả cộng đồng xã hội mới là nhân tố đóng vai trò quyết định trong
sự hình thành ý thức xã hội mới. Để quá trình hình thành ý thức xã hội mới diễn
ra tự giác, đúng hướng, đạt hiệu quả thì cần phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, Đảng cũng chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo đó khi biết nâng cao tầm
trí tuệ, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo và gắn bó máu thịt với nhân dân.
-
Ý thức xã hội mới là kết quả của sự kế thừa toàn bộ những tinh hoa trong lịch
sử tư tưởng dân tộc và nhân loại, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng với
những ý thức lạc hậu, phản tiến bộ, tư tưởng phản động, chủ nghĩa cá nhân,… Đây
cũng là cuộc đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Quá trình đấu tranh này đầy khó khăn, gian khổ, lâu dài, đòi hỏi sự nỗ lực,
cố gắng của mỗi cán bộ, đảng viên, của toàn Đảng và toàn dân.
-
Hình thành ý thức xã hội mới phải gắn liền với phát triển kinh tế, củng cố quan
hệ sản xuất XHCN. Hiện nay đất nước ta đang phát triển kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN, mở cửa, giao lưu, hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta càng cần
phải chú ý giữ vững định hướng XHCN của sự phát triển kinh tế. Bởi kinh tế thị
trường không chỉ có tác động tích cực mà còn là môi trường thuận lợi cho những
hiện tượng tiêu cực về tinh thần, tư tưởng, đạo đức nảy sinh.
Ngoài
ra chúng ta còn phải phát huy được quyền làm chủ của nhân dân lao động. Có thế
chúng ta mới lôi cuốn được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia cải tạo những
tư tưởng lạc hậu, đấu tranh có hiệu quả với những tư tưởng sai trái, phản tiến
bộ; thu hút họ tham gia quản lý, xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, văn
hóa, giáo dục, khoa học.
Đây
là điều kiện cơ bản, quan trọng cho việc hình thành và phát triển ý thức xã hội
mới.
CÂU HỎI ÔN TẬP BÀI 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Câu 1: Vận dụng quan điểm lịch
sử cụ thể vào việc xem xét, giải quyết vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp?
* Khái niệm:
- Giai cấp :
Theo Lênin: “Người ta gọi giai cấp, những tập
đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản
xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường
thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư
liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là
khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ
được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt
lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một
chế độ kinh tế xã hội nhất định”.
- Đấu tranh giai cấp:
Đỉnh cao của cuộc đấu
tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế phương thức sản
xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất mới
ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Sản xuất phát
triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội.
Dựa vào tiến trình phát triển của lịch sử,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách
mạng xã hội. Cách mạng xã hội như là đòn bẩy thay đổi các hình thái kinh tế xã
hội vì vậy “đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có
giai cấp”. Đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu
đồng thời cải tạo cả bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào đại biểu cho
phương thức sản xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Thành tựu mà loài
người đạt được trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng
khoa học và công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội không tách rời
cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch,
phản động.
* Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay:
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta
tiếp tục khẳng định rằng, hiện nay và cả trong thời kỳ quá độ của cả nước ta
còn tồn tại một cách khách quan các giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhưng đấu
tranh giai cấp ở nước ta hiện nay phải nhận thức cho đúng, nó diễn ra trong
điều kiện mới với những nội dung mới và hình thức mới. Bởi vì cùng với những
biến đổi to lớn về kinh tế xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của
Nhà nước, cơ cấu giai cấp, nội dung, tính chất, vị trí của các giai cấp trong
xã hội ta cũng đã thay đổi nhiều, khác với thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ
trong những năm đầu chúng ta mới giành được chính quyền.
Mối quan hệ giữa các giai cấp, sự phát triển
của các giai cấp trong sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh
đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước không còn như trước đây. Ngày nay, mối
quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp chủ yếu là mối quan hệ hợp tác và đấu
tranh trong nội bộ nhân dân nhằm tăng cường đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống
nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội dân, giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư
bản chủ nghĩa gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống áp bức
bất công, chống bóc lột chống nghèo nàn lạc hậu đấu tranh chống tình trạng đói
nghèo, kém phát triển.
Vì vậy, nội
dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo kém phát triển, thực hiện công bằng
xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng
và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta
thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Đồng thời Đảng
ta cũng khẳng định: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng
lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi
tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội .
Câu 2: Biểu hiện của cách mạng
xã hội trong thời đại ngày nay?
Đó là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa được
tiến hành trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
* Trên lĩnh vực chính trị:
- Đưa quần
chúng nhân dân lao động từ địa vị nô lệ làm thuê bị bóc lột, bị áp bức trở
thành người làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, bằng lao động sản xuất, bằng cuộc
đấu tranh xoá bỏ những cái xấu của xã hội cũ. Xây dựng xã hội mới về mọi mặt
làm cho đời sống ngày càng phát triển, mức sống của nhân dân ngày càng càng
nâng lên.
- Quá trình
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quá trình nhân dân thực hiện làm chủ về
chính trị cũng là quá trình đấu tranh gay go quyết liệt giữa cái cũ và cái mới,
giữa cá nhân và tập thể giữa chủ nghĩa cách mạng và phản cách mạng.
* Trên lĩnh vực kinh tế:
- Cách mạng xã hội chủ
nghĩa trong lĩnh vực kinh tế truớc hêt phải thay đổi vị trí, vai trò của người
lao động đối với tư liệu sản xuất, thay chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa bằng chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới những hình thức thích hợp; thực
hiện những biện pháp cần thiết gắn người lao động với tư liệu sản xuất.
- Trên cơ sở
lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động ngày càng tăng cao, từng buớc
cải thiện đời sống nhân dân lao động, nâng cao chất lượng sức khoẻ, năng lực
của người lao động. Mặt khác, dưới chủ nghĩa xã hội tìm mọi cách phát huy tính
tích cực xã hội, khả năng sáng tạo của người lao động để ngày càng nâng cao
năng suất lao động, hiệu quả công tác làm cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày
càng phát triển góp phần chiến thắng chủ nghĩa tư bản.
*Trên lĩnh vực tư tưởng- văn hoá:
- Trong các xã
hội trước đây giai cấp bóc lột nắm tư liệu sản xuất vật chất, họ cũng nắm luôn
công cụ thống trị về mặt tinh thần.
Dưới chủ nghĩa
xã hội , giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động đã là người làm chủ
những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Do vậy, cũng là sáng tạo ra những
giá trị tinh thần của xã hội, đồng thời cũng là những người thụ hưởng những giá
trị văn hoá tinh thần đó.
- Cách mạng xã
hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hoá, thực hiện việc giải phóng những người lao
động về tinh thần thông qua về xây dựng từng buớc thế giới quan và nhân sinh
quan mới cho người lao động, hình thành những con người mới xã hội chủ nghĩa,
giàu lòng yêu nước, thương dân, có bản lĩnh chính trị, nhân văn, nhân đạo, có
hiểu biết và biết giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân, gia đình và xã hội..
có năng lực làm chủ xã hội.
Cách mạng xã
hội chủ nghĩa diễn ra đồng thời trên các lĩnh vực đó có quan hệ mật thiết, tác
động thúc đẩy lẫn nhau.
Câu
3: Phân biệt tâm lý xã hội và hệ tư
tưởng?
* Tâm
lý xã hội bao gồm toàn bộ tình
cảm, ước muốn, tâm trạng, tập quán... của con người, của một bộ phận xã hội
hoặc của toàn xã hội hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày
của họ và phản ánh đời sống đó.
- Đặc
điểm của tâm lý xã hội là phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sinh sống hàng
ngày của con người, là sự phản ánh có tính chất tự phát, thường ghi lại những
mặt bề ngoài của tồn tại xã hội. Nó không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng,
sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội của con người.
- Những
quan niệm của con người ở trình độ tâm lý xã hội còn mang tính kinh nghiệm,
chưa được thể hiện về mặt lý luận, yếu tố trí tuệ đan xem với yếu tố tình cảm.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tâm lý xã hội trong sự
phát triển của ý thức xã hội. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh rất
coi trọng việc nghiên cứu trạng thái tâm lý xã hội của nhân dân để hiểu nhân
dân, giáo dục nhân dân, đưa nhân dân tham gia tích cực, tự giác vào cuộc đấu tranh
cho một xã hội tốt đẹp.
* Hệ
tư tưởng là trình độ nhận thức lý
luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết
học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo), kết quả của sự khái quát hóa những kinh
nghiệm xã hội. Hệ tư tưởng được hình thành một cách tự giác nghĩa là tạo ra bởi
các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định và được truyền bá trong xã hội.
-
Cần phải phân biệt hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học. Hệ tư
tưởng khoa học phản ánh chính xác, khách quan các mối quan hệ vật chất của xã
hội. Hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh các mối quan hệ vật chất của
xã hội, nhưng dưới một hình thức sai lầm, hư ảo hoặc xuyên tạc.
-
Với tính cách là một bộ phận của ý thức xã hội, hệ tư tưởng ảnh hưởng lớn đến
sự phát triển của khoa học. Lịch sử các khoa học tự nhiên đã cho thấy tác dụng
quan trọng của hệ tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng triết học đối với quá trình
khái quát những tài liệu khoa học.
*
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức phản
ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng có mối quan hệ tác động qua lại với
nhau, chúng có cùng một nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã
hội.
Tâm
lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên giai cấp tiếp thu hệ tư
tưởng của giai cấp.
Mối
liên hệ chặt chẽ giữa hệ tư tưởng (đặc biệt là tư tưởng khoa học tiến bộ) với
tâm lý xã hội, với thực tiễn cuộc sống sinh động và phong phú sẽ giúp cho hệ tư
tưởng xã hội, cho lý luận bớt xơ cứng, bớt sai lầm.
Trái
lại hệ tư tưởng, lý luận xã hội, gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. Hệ
tư tưởng khoa học thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn,
lành mạnh có lợi cho tiến bộ xã hội. Hệ tư tưởng phản khoa học, phản động kích
thích những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội phát triển.
Tuy
nhiên, hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội, không phải là sự
biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.
Bất
kỳ tư tưởng nào khi phản ánh các mối quan hệ đương thời thì đồng thời cũng kế
thừa những học thuyết xã hội, những tư tưởng và quan điểm đã tồn tại trước đó.
Thí dụ, hệ tư tưởng tôn giáo thời trung cổ ở Tây Âu thể hiện lợi ích của giai
cấp phong kiến, nhưng lại ra đời trực tiếp từ những tư tưởng triết học duy tâm
có từ thời cổ đại và những tư tưởng của đạo Cơ đốc thời kỳ đầu Công nguyên. Hệ
tư tưởng Mác - Lênin cũng không trực tiếp ra đời từ tâm lý xã hội của giai cấp
công nhân lúc đó đang tự phát đấu tranh chống giai cấp tư sản, mà là sự khái
quát lý luận từ tổng số những tri thức của nhân loại, từ những kinh nghiệm của
cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, đồng thời kế thừa trực tiếp các
học thuyết kinh tế - xã hội và triết học vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ
XIX...
Như vậy, hệ tư tưởng xã hội liên hệ hữu cơ
với tâm lý xã hội, chịu sự tác động của tâm lý xã hội, nhưng nó không phải đơn
giản là sự "cô đặc" của tâm lý xã hội.
Câu 4: Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Tại sao chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh lại được chọn là nền tảng tinh thần, là
kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng ta?
* Tính độc lập tương đối của ý thức xã
hội đối với tồn tại xã hội
Ý thức xã hội không phụ thuộc vào tồn tại xã
hội 1 cách thụ động. Thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức xã hội
có thể tác động trở lại tồn tại xã hội. Trong quá trình phát triển, tuy có chịu
sự quy định của các quy luật của tồn tại xã hội, nhưng ý thức xã hội vẫn có
những quy luật riêng của mình. Triết học Mác-Lênin thừa nhận tính độc lập tương
đối của ý thức xã hội trong quan hệ với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối
của ý thức xã hội biểu hiện ở những điểm sau:
-
Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Ý
thức xã hội là cái phản ánh của tồn tại xã hội, còn tồn tại xã hội là cái được
phản ánh bởi ý thức xã hội. Do vậy, ý thức xã hội với tư cách là cái phản ánh
bao giờ cũng biến đổi chậm hơn so với cái được phản ánh – tồn tại xã hội, nhất
là trong những thời điểm có tính chất bước ngoặt của đời sống xã hội.
Sự lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại
xã hội có nhiều nguyên nhân:
+ Thứ nhất: Do sức ỳ của tâm lý xã hội. Khi tâm lý xã hội trở
thành thói quen, tập quán…thì nó bám rễ tương đối bền vững ở mỗi người, mỗi
nhóm cộng đồng, tầng lớp xã hội,..
+ Thứ 2: Trong ý thức xã hội có những yếu tố bảo thủ (ví dụ
như ý thức tôn giáo phản ánh không đúng và không kịp sự vận động, biến đổi của
xã hội).
+ Thứ 3: Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội luôn gắn với
lợi ích của những nhóm xã hội, tập đoàn xã hội, giai cấp xã hội khác nhau.
Những quan điểm, tư tưởng, tâm lý cũ thường được các lực lượng xã hội, nhím xã
hội, gai cấp xã hội bảo thủ, phản biến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống những
lực lượng xã hội tiến bộ.
-
Ý thức xã hội có thể “vượt trước” tồn tại xã hội.
+ Ý
thức xã hội nếu phản ánh đúng quy luật vận động khách quan của tồn tại xã hội
thì nó có thể phản ánh vượt trước tồn tại xã hội, nó chỉ ra khuynh hướng vận
động, phát triển của tồn tại xã hội, trên cơ sở đó có thể dự báo tương lai, góp
phần chỉ đạo tổ chức thực tiễn đạt hiệu quả cao nhất.
+ Ý
thức xã hội phản ánh đúng được quy luật khách quan của sự vận động, phát triển
của tồn tại xã hội thì sự phản ánh vượt trước của ý thức xã hội đối với tồn tại
xã hội sẽ có cơ sở.
+ Nếu
ý thức xã hội phản ánh không đúng quy luật khách quan của sự vận động, phát
triển của tồn tại xã hội, hơn nữa, nó lại bị chi phối bởi mong muốn chủ quan,
duy ý chí thì khi ấy sự phản ánh vượt trước của ý thức xã hội sẽ là sự vượt
trước không có cơ sở, dễ rơi vào vượt trước ảo tưởng.
Chủ
nghĩa Mác-Lênin tuy ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX từ trong lòng của
chủ nghĩa tư bản, sau được Lênin bổ sung, phát triển trong điều kiện chủ nghĩa
tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, nhưng do phản ánh đúng quy luật
khách quan của sự vận động, phát triển của xã hội tư bản chủ nghĩa, nên đã chỉ
ra khuynh hướng vận động tất yếu của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Do vậy, trong thời đại ngày nay, chủ
nghĩa Mác-Lênin vẫn là thế giới quan, phương pháp luận khoa học chung nhất cho
nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ, cho sự nghiệp cải tạo, xây
dựng CNXH của nhân dân ta.
-
Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình.
Trong quá trình đó, chúng ta phải đứng trên
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối văn hóa của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc tiếp thu, kế thừa những giá trị tinh thần phải
trên quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm lợi ích và quan điểm giai cấp. Đồng
thời phải có thái độ đúng với quá khứ, tránh phủ định sạch trơn cũng như tránh
bê nguyên xi những yếu tố tinh thần của các thời đại trước.
-
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng.
Mỗi hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại
xã hội theo những phương thức riêng của mình. Điều này đã làm cho sự phản ánh
của ý thức xã hội nói chung đa dạng, phong phú, nhưng cũng chính điều đó làm
cho mỗi hình thái ý thức xã hội có “đời sống” riêng và quy luật riêng của mình.
Điều này làm cho các hình thái ý thức xã hội không thể thay thế lẫn nhau, nhưng
lại cần đến nhau, bổ sung cho nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, tác động, thâm nhập lẫn
nhau và cùng nhau tác động đến tồn tại xã hội.
Ở
mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, mà 1 hình thái ý
thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu và đóng vai trò chi phối các hình thái ý
thức xã hội khác.
Trong
xã hội có giai cấp, chính trị có vai trò quan trọng đối với các hình thái ý
thức xã hội khác. Ý thức chính trị tiến bộ của giai cấp tiến bộ sẽ tác động
tích cực, tiến bộ tới nghệ thuật, đạo đức, pháp quyền. Ngược lại ý thức chính
trị lỗi thời của giai cấp lỗi thời, lạc hậu, bảo thủ sẽ có tác động tiêu cực. Ở
Việt Nam hiện nay, nếu xa rời đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, nghệ
thuật, pháp quyền, triết học,... sẽ không tránh khỏi sai lầm trong quá trình
phát triển.
-
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với
tồn tại xã hội theo 2 khuynh hướng cơ bản là tích cực và tiêu cực.
+ Nếu
ý thức xã hội phản ánh đúng quy luật khách quan của sự vận động, phát triển của
tồn tại xã hội thì thông qua hoạt động thực tiễn của con người nó có thể tác
động tích cực trở lại tới tồn tại xã hội, nó thúc đẩy phương thức sản xuất phát
triển, góp phần cải biến điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý theo hướng có
lợi, điều chỉnh dân số và mật độ dân cư phù hợp với điều kiện kinh tế - địa lý,
trên cơ sở đó thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ.
+ Nếu
ý thức xã hội lạc hậu, phản ánh không đúng quy luật khách quan của sự vận động,
phát triển của tồn tại xã hội hoặc ý thức xã hội phản tiến bộ, phản ánh vượt trước
ảo tưởng, duy ý chí,… thì sẽ tác động tiêu cực đến tồn tại xã hội, cản trở tồn
tại xã hội phát triển, cản trở sản xuất vật chất, hủy hoại môi trường sống tự
nhiên, mất cân bằng dân số và mật độ dân cư, kìm hãm sự phát triển xã hội theo
hướng tiến bộ.
Mức
độ, tính chất và hiệu quả tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như: Tính tiến bộ, cách mạng hay lạc hậu, phản động của
chủ thể mang ý thức xã hội tức địa vị lịch sử của giai cấp – chủ thể mang ý
thức xã hội; tính khoa học hay không của ý thức xã hội vào quảng đại quần chúng
nhân dân; năng lực triển khai, hiện thực hóa ý thức xã hội vào hoạt động thực
tiễn của chủ thể lãnh đạo, quản lý.
* Tại
sao chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh lại được chọn là nền tảng tinh
thần, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng ta?
Thắng lợi của cách mạng nước
ta nói chung cũng như sự trưởng thành, lớn mạnh của Đảng cộng sản Việt Nam gần
một thế kỷ qua nói riêng là kết quả tổng hợp của rất nhiều yếu tố. Nhưng có một
thực tế không thể phủ nhận, đó là nhờ Đảng ta đã được vũ trang bằng lý luận
cách mạng và khoa học nhất của thời đại: chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trong thời kỳ cách mạng mới, việc tiếp tục kiên định và vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam
vẫn là một tất yếu khách quan, là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc, đồng thời là một bộ phận của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đảng lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đây là vấn
đề có tính nguyên tắc, thể hiện bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân,
tính dân tộc của Đảng, thể hiện lập trường kiên định của Đảng trước những diễn
biến nhanh chóng, phức tạp của tình hình, đồng thời là tiêu chuẩn cơ bản phân
biệt Đảng Cộng sản với các đảng phái khác. Khẳng định diều này ngay từ luận
cương chính trị 1930 đã khẳng định: "Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi
của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường
lối chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng,
và từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai
cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc". Tiếp đến Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ” trong đó khẳng định: “Đảng
lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho mọi hành động". Khẳng định trên được xây dựng trên những cơ
sở sau:
-
Một là:
Xuất phát từ cơ sở khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, thể hiện cụ thể là: Chủ
nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống các quan điểm lý luận và phương pháp khoa học
được kết tinh và là đỉnh cao thành tựu trí tuệ của loài người, của tinh hoa văn
hoá mà nhân loại đã sáng tạo ra. lao động, đem lại cho họ niềm tin vào khả năng
và sức mạnh của chính mình.
Bản chất khoa
học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin còn thể hiện ở chỗ: Đó là học thuyết
mở, không cứng nhắc, bất biến mà nó đòi hỏi luôn được bổ sung, tự đổi mới, tự
phát triển trong dòng phát triển trí tuệ của nhân loại.
Cùng với chủ
nghĩa Mác- Lênin, Đảng ta khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cấu
thành nền tảng tư tưởng của Đảng. Đó là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại. Bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí
Minh thể hiện ở những quan điểm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn
kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của dân,
do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân;
về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người
đầy tớ trung thành của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần quý
báu của Đảng và của dân tộc ta.
- Hai là: chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng sản Việt Nam: ĐCSVN là sản
phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bộ phận cấu thành, giữ
vai trò then chốt, quyết định sự ra đời của Đảng. Chỉ từ khi chủ nghĩa Mac-Lênin
được Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng sáng tạo, truyền bá vào phong trào công
nhân va phong trào yêu nước mới làm cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động
nhận thức được bản chất bóc lột, thối
nát của chế độ thực dân, phong kiến và nhận thức được vai trò, sứ mệnh lịch sử
của mình; cũng từ đó làm chuyển biến phong trào công nhân từ tự phát lên tự
giác, phong trào yêu nước từ lập trường dân tộc sang lập trường giai cấp. Chính
chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã đưa giai cấp công nhân Việt Nam
bước lên vũ đài chính trị và trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng thông qua
lãnh tụ chính trị, đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của mình là ĐCSVN.
- Ba là: Từ thực tiễn hoạt động xây dựng của Đảng ta và các
đảng cộng sản trên thế giới: Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta
luôn trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vàò điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của nước ta, coi đây là cơ sở lý luận, nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam trong xây dựng, tổ chức và hoạt động của Đảng. Vì vậy, Đảng luôn có cương lĩnh,
đường lối, chiến lược, sách lược…đúng đắn, lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác
Đảng phải nghiên cứu, nắm vững bản chất cách
mạng - khoa học, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của tình hình đất nước
để đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn. Trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
xây dụng Đảng vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức.
Mọi cán bộ, đảng viên phải tích cực học tập,
nghiên cứu nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để
nâng cao trình độ trí tuệ và bản lĩnh chính trị của đảng viên.
Đó là nguyên nhân vì sao Chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tửong Hồ Chí Minh được chọn là nền tảng tinh thần, là kim chỉ nan
cho mọi hoạt động của Đảng ta.
Post a Comment