BÀI 3: NHỮNG VẤN
ĐỀ CƠ BẢN CỦA
PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
Câu
1: Thuộc tính của hàng hóa (giá trị sử dụng và giá
trị)?
*Khái niệm:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể
thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán. Có nhiều
cách phân loại hàng hóa như: hàng hóa vật thể, hàng hóa phi vật thể; hàng hóa
tiêu dùng, hàng hóa phục vụ sản xuất,…
* Thuộc tính của hàng hóa:
-
Giá trị sử dụng của hàng hóa:
Là công dụng của hàng hóa có thể thỏa mãn
nhu cầu nào đó của con người.
Bất
cứ hàng hóa nào cũng có 1 hay 1 số công dụng nhất định. Chính công dụng đó
(tính có ích đó) làm cho hàng hóa có giá trị sử dụng.
Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát
hiện dần dần trong quá trình phát triển khoa học – công nghệ và của lực lượng
sản xuất nói chung. Xã hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất càng phát triển thì
số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều và chủng loại giá trị sử dụng càng
phong phú.
Giá trị sử dụng của hàng hóa không phải là
giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp ra nó mà là cho người khác, cho xã
hội, thông qua trao đổi, mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải
luôn quan tâm đến nhu cầu xã hội, làm cho sản phẩm của mình luôn đáp ứng nhu
cầu xã hội.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là vật mang giá
trị trao đổi.
-
Giá trị của hàng hoá:
+
Giá trị trao đổi trước hết là 1 quan hệ về số lượng, là tỷ lệ trao đổi giữa các
giá trị sử dụng khác nhau.
Để
trao đổi với nhau thì chúng phải có giá trị sử dụng khác nhau, đồng thời giữa
chúng cũng tồn tại điểm chung: đều là sản phẩm của lao động, đều được kết tinh
bởi lao động, nhờ đó chúng có thể trao đổi cho nhau.
Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động xã
hội của con người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
Chất
của giá trị là lao động. Lượng của giá trị là số lượng lao động của người sản
xuất kết tinh trong hàng hóa. Gía trị là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá
trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
Câu 2: Tính chất
hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
* Tính chất hai mặt của lao động sản
xuất hàng hóa
2 thuộc tính của hàng hóa:
-
Giá trị sử dụng của hàng hóa
-
Giá trị của hàng hóa.
Sở dĩ hàng hóa có 2 thuộc tính là vì lao
động sản xuất hàng hóa có tính 2 mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
- Lao
động cụ thể là lao động có ích dưới 1 hình thức cụ thể của những nghề
nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công
cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Chính những cái
riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau. Như vậy, lao động cụ thể
tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
Khoa học, công nghệ và lực lượng sản xuất
ngày càng phát triển, càng có nhiều hình thức cụ thể của lao động, do đó xã hội
càng sản xuất ra nhiều chủng loại hàng hóa. Chúng ngày càng phong phú, đa dạng
hơn. Năng suất lao động càng tăng, trình độ khoa học, công nghệ càng hiện đại
thì số lượng hàng hóa sản xuất ra càng nhiều với chất lượng ngày càng tốt hơn.
- Lao
động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ
những hình thức cụ thể của nó và quy về 1 thể chung đồng nhất, đó chính là sự
tiêu phí sức lao động nói chung (cả thể lực và trí lực) của người sản xuất hàng
hóa.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa.
Giá trị hàng hóa chính là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong
hàng hóa. Nhờ lao động trừu tượng mà ta tìm thấy sự đồng nhất giữa những người
sản xuất, do đó thấy được cơ sở của quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất
hàng hóa. Lao động trừu tượng là cơ sở để người sản xuất hàng hóa trao đổi sản
phẩm với nhau.
* Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu
Phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá giúp C.Mác
thành công trong việc xây dựng lý luận giá trị.
- Xác định được chất của giá trị
là do lao động trừu tượng kết tinh, biểu hiện quan hệ xã hội và là một phạm trù
lịch sử.
- Xác định được lượng của giá trị
là lượng lao động trung bình hay thời gian lao động xã hội cần thiết.
- Xác định được hình thái biểu
hiện của giá trị phát triển từ thấp tới cao, từ hình thái giản đơn đến hình
thái mở rộng, hình thái chung và cuối cựng là hình thái tiền.
- Xác định được quy luật giá trị - quy luật cơ bản của sản xuất hàng hoá.
Quy luật này đòi hỏi người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải đảm bảo thời gian
lao động xã hội cần thiết.
Câu 3: Ưu thế của
nền sản xuất hàng hóa? Nội dung, hình thức biểu hiện và chức năng của quy luật
giá trị? Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
*Khái niệm:
-
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức sản xuất, mà trong đó sản phẩm làm ra không
phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó
mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho người khác, thông qua việc trao đổi, mua
bán.
* Ưu thế của nền sản xuất hàng hóa
Sản
xuất hàng hóa có những ưu thế hơn hẳn so với sản xuất tự cung, tự cấp, biểu
hiện qua 4 khía cạnh:
- Thứ nhất: Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao
độ/ng xã hội, chuyên môn hóa sản xuất, do đó, nó khai thác được những lợi thế
về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở cũng như của từng
vùng, từng địa phương. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa mở rộng giữa các quốc
gia thì nó còn khai thác được lợi thế của mỗi quốc gia.
- Thứ hai: Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô, tính chất tổ
chức sản xuất không bị giới hạn mà nó được mở rộng, xã hội hóa ngày càng cao
dựa trên cơ sở ngày càng tăng về nhu cầu và nguồn lực xã hội. Điều đó tạo điều
kiện ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Thứ ba: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của những
quy luật vốn có của sản xuất và trao đổi hàng hóa như quy luật giá trị, cung –
cầu, cạnh tranh,… buộc người sản xuất phải luôn luôn năng động, nhạy bén, tính
toán, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả kinh tế.
- Thứ tư: Sản xuất hàng hóa phát triển trở thành một trong
những điều kiện để nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho mọi người
dân.
Tuy
nhiên bên cạnh những mặt tích cực, sản xuất hảng hóa cũng có những mặt trái của
nó như: phân hóa những người sản xuất thành giàu nghèo, nguy cơ khủng hoảng
kinh tế, phá hoại môi trường sinh thái,…
* Nội dung của quy luật giá trị:
-
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Ở đâu có trao đổi, sản xuất hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá
trị. Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở
giá trị của nó, tức là hao phí lao động xã hội cần thiết.
- Trong
sản xuất, người sản xuất phải có mức hao phí lao động cá biệt của mình nhỏ hơn
hoặc bằng với mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì mới đạt được lợi thế
trong cạnh tranh.
-
Trong trao đổi, thực hiện theo nguyên tắc ngang giá.
-
Trong trao đổi hàng hóa với nhau, hai bên được lợi về giá trị sử dụng còn lượng
giá trị là bằng nhau.
-
Hai hàng hóa trao đổi trực tiếp với nhau theo một tỷ lệ nào đó có nghĩa là
chúng kết tinh một lượng lao động bằng nhau. Khi có tiền xuất hiện để mua bán
thì giá cả hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của nó.
* Hình thức biểu hiện của quy luật giá
trị:
Quy luật giá trị hoạt động được thể hiện ở
sự biến đổi lên, xuống của giá cả xoay quanh giá trị dưới tác động của quan hệ
cung – cầu về hàng hóa trên thị trường. Sự biến đổi giá cả một cách tự phát tự
do là sự phản ánh hoạt động của quy luật giá trị.
Nếu sức mua đồng tiền không đổi, không kể
đến điều tiết của nhà nước và độc quyền thì xảy ra 3 trường hợp:
-
Khi cung = cầu,
thì giá cả = giá trị.
-
Khi cung >
cầu, thì giá cả < giá trị.
-
Khi cung <
cầu, thì giá cả > giá trị.
Sự
thay đổi của giá cả xoay quanh trục giá trị làm nên “vẻ đẹp sinh động của thị
trường”, tạo sự hấp dẫn cho sản xuẩ và tiêu dùng.
Xét
tổng thể thì tổng giá cả luôn bằng tổng giá trị.
*
Chức năng của quy luật giá trị:
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng
hóa
Quy
luật giá trị tự động điều tiết sản xuất thể hiện ở chỗ thu hút vốn vào các
ngành sản xuất khác nhau tạo nên cơ cấu kinh tế hiệu quả hơn và đáp ứng nhu cầu
của xã hội.
Tác
động điều tiết lưu thông hàng hóa thể hiện ở chỗ, nó thu hút hàng hóa từ nơi có
giá cả thấp đến nơi có giá cả cao. Do đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các
vùng có sự cân bằng nhất định.
- Kích thích tiến bộ, nâng cao năng suất
lao động
Người
sản xuất có lãi hay không là do giải được bài toán hao phí lao động của mình
phải thấp hơn hoặc bằng với hao phí lao động xã hội. Muốn vậy, những người sản
xuất hàng hóa cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý,
thực hiện tiết kiệm, tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất. Quá trình
này diễn ra lien tục sẽ làm cho lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
- Phân hóa những người sản xuất hàng hóa
thành giàu – nghèo
Những
chủ thể sản xuất hàng hóa có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí
lao động xã hội cần thiết thì có thể thắng thế trong cạnh tranh, họ sẽ giàu
lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh , trở
thành chủ thể giàu có hơn, và có thể sử dụng được nhiều hơn lao động làm thuê.
Ngược
lại, những chủ thể sản xuất hàng hóa có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn
mức hao phí lao động xã hội cần thiết, sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, phá sản,
họ trở thành người nghèo.
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật giá
trị.
-
Do tác động nhiều mặt của quy luật giá trị đã làm cho sản xuất hàng hóa thực sự
là khởi điểm ra đời của chủ nghĩa tư bản.
-
Quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực một cách tự
phát, khách quan.
-
Trước thời kỳ đổi mới, chúng ta phủ nhận sản xuất hàng hóa và quy luật giá trị,
nên không khai thác được các nguồn lực, nền kinh tế kém phát triển, rơi vào
khủng hoảng.
-
Trong thời kỳ đổi mới, chúng ta phát triển sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị
hoạt động, tạo nên cạnh tranh, phát triển kinh tế,… Bên cạnh đó, mặt trái nảy
sinh như: phân hóa giàu – nghèo, buôn bán gian lận,…
-
Vì vậy, Nhà nước điều tiết bằng luật pháp, chính sách đầu tư, thuế, đào tạo
nhân lực,…để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở
nước ta
Câu4: Trình bày ví dụ sản xuất giá trị thặng dư? Nguồn gốc
và bản chất của giá trị thăng dư?
*
Ví dụ về sản xuất giá trị thặng dư:
Giả sử để chế tạo ra 1kg sợi, nhà tư
bản phải chi ra 28.000 đơn vị tiền tệ bao gồm 20.000 đơn vị tiền tệ mua 1kg
bông, 3.000 đợn vị cho hao phí máy móc và 5.000 đơn vị mua sức lao động của
công nhân để điều khiển máy móc trong 1ngày(10h)
Giả
định việc mua này là đúng giá trị. Đồng thời giả định mỗi giờ lao động, người
công nhân tạo ra 1.000 đơn vị giá trị mới kết tinh vào trong sản phẩm.
Vậy
bằng lao động cụ thể, người công nhân đã chuyển giá trị của bông và hao mòn máy
móc vào trong sợi và bằng lao động trừu tượng của mình, mỗi giờ công nhân lại
tạo thêm 1 lượng giá trị mới là 1.000 đơn vị.
Nếu
chỉ trong vòng 5h, công nhân đã kéo xong 1kg sợi thì giá trị của 1kg sợi là:
- Giá trị 1kg bông = 20.000 đơn vị
- Hao mòn máy móc = 3.000 đơn vị
- Giá trị mới tạo ra(trong 5h lao
động, phần này vừa đủ bù đắp giá trị sức lao động)
= 5.000
đơn vị
Vậy tổng giá trị của 2kg sợi là 28.000 đơn vị.
Tuy nhiên, do nhà tư bản đã cho thuê công nhân
trong 10h nên trong 5h lao động tiếp theo, nhà tư bản không phải bỏ ra 5.000
đơn vị mua sức lao động nữa mà chỉ cần bỏ ra 20.000 đơn vị tiền tệ để mua 1kg
bông, 3.000 đơn vị cho hao mòn máy móc, tức 23.000 đơn vị tiền tệ, nhà tư bản
có thêm 1kg sợi.
-
Như vậy, trong 1 ngày lao động, nhà tư bản bỏ ra 51.000 đơn vị tiền tệ để thu
được 2kg sợi. Trong khi đó giá trị của 2kg sợi là 28.000 . 2 = 56.000 ĐV tiền
tệ.
Do
đó nhà tư bản thu được một phần giá trị dôi ra, tực là giá trị thăng dư, bằng
5.000 đơn vị tiền tệ.
Từ
ví dụ trên, ta thấy giá trị thặng dư chính là phần giá trị mới do lao động của
công nhân tạo ra ngoài sức lao động, là kết quả lao động không công của công
nhân cho nhà tư bản.
Như
vậy nguồn gốc tạo ra gía trị thặng dư là sức lao động của người công nhân làm
thuê. và bản chất của thặng dư là:
-
tỷ suất giá trị
thặng dư phản ánh trình độ bóc lột lao động làm thuê của tư bản.
-
Khối lượng giá
trị thặng dư phản ánh quy mô bóc lột của tư bản.
Câu
5: Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
*Hai
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối: Giá trị thặng dư tuyệt đối
là giá trị thặng dư thu được bằng cách kéo dài ngày lao động vuợt quá thời gian
lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, thời gian lao động tất yếu và
giá trị sức lao động không đổi.
Để có giá trị thặng dư tuyệt đối có thể sử
dụng các biện pháp như kéo dài ngày lao động tất yếu càng dài càng tốt, hoặc
tăng cường độ lao động.Do đó, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối bị giới hạn
bởi thời gian trong ngày và tình hình sức khoẻ, tâm sinh lý người công nhân.
Việc áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt dối thường gây ra sự
phản kháng của công nhân làm thuê.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
tương đối:
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách rút ngắn thời
gian lao động tất yếu, nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư, trong khi
lao động có thể không đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
để
thu được giá tương đối, cần rút ngắn thời gian lao động tất yếu. Để rút ngắn
thời gian lao động tất yếu cần phải hạ thấp giá trị lao đông. Mà muốn hạ thấp
giá trị sức lao động thì phải tìm cách
hạ giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động thông qua các biện pháp tăng năng suất lao
động trong những ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sinh hoạt
và trong những ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt.
Giá trị thặng dư siêu ngạch: là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công
nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp
hơn giá trị thị trường của nó. Trong từng xí nghiệp giá trị thặng dư siêu
ngạch là một hiện tượng thạm thời, nhưng
trong phạm vi xã hội nó lại thường xuyên tồn tại.Giá trị thặng dư siêu ngạch là
động lực mạnh nhất để thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ để tăng năng
suất lao động.
C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình
thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Ý
nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
Nếu
gạt bỏ mục đích và tính chất tư bản chủ nghĩa thì các phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư, nhất là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá
trị thặng dư siêu ngạch có tác dụng mạnh mẽ, kích thích cá nhân và tập thể
người lao động ra sức cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý sản xuất, tăng năng
xuất lao động, lực lượng sản xuất phát triển nhanh.
Câu
6: Đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa
tư bản độc quyền?
- Tích tụ sản xuất và các tổ chức độc
quyền:
Sự hình thành và phát triểncủa các tổ chức độc
quyền là dấu hiệu căn bản nhất của sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản tự do
cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền. Sự chuyển biến đó diễn ra dưới tác
động của tập trung sản xuất thể hiện trên các phương diện :
Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản độc quyền
được hình thành trên cơ sở tập trung sản xuất cao độ trong nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa.
Sự
phát triển của tập trung đến mức độ nhất định sẽ dẫn thẳng đến độc quyền do,
một mặt, số lượng các xí nghiệp khổng lồ không nhiều đã tạo ra khả năng dễ dàng
thoả thuận với nhau; mặt khác, chính quy mô to lớn của các xí nghiệp làm cho
cạnh tranh ngày càng khó khăn và làm nảy sinh khuynh hướng đi đến độc quyền, Do
đó, độc quyền thay thế cạnh tranh trở thành một trong những hiện tượng quan
trọng nhất trong nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Thứ
hai, tập trung sản xuất dưới tác
động tới sự hình thànhcác hình thức tổ chức độc quyền nhất định trong nền kinh
tế. Sự xuất hiện của độc quyền tư bản được thực hhiện bằng cách liên kết giữa
các xí nghiệp tư bản lớn cùng nghành dưới nhiều hình thức khác nhau như Cácten,
xanhđica, tớt.Tuy nhiên, quá trình tích tục và tập trung sản xuất trong các
nghành, các lĩnh vực diễn ra không đều như nhau, vì vậy ngoài liên kết ngang
trong nền kinh tế các nước tư bản phát triển còn xuất hiện cả những hình thức
liên kết dọc dưới hình thái”chế độ liên hợp hoá, nghĩa là sự tập hợp vào trong
tay một xí nghiệp duy nhất nhiều ngành công nghiệp khác nhau”
Thứ 3, tương ứng với từng mức độ phát triển của tập trung sản xuất là giai
đọn hình thành và phát triển của độc quyền tư bản. Sự hình thành và phát triển
của độc quyền tư bản là một quá trình lịch sử. Từ chỗ xuất hiện với tu cách là
những hiện tuợng cá biệt, độc quyền đã dần trở thành hiện tượng ngày càng phổ
biến và vững chắc, có sực mạnh kinh tế ngày càng lớn trong nền kinh tế quốc
dân.
Những
đặc điểm đặc thù của tổ chức độc quyếno với các tổ chức khác bao gồm:
Một là, các tổ chức độc quyền là lực
lượng chiếm ưu thế trong nền kinh tế. Những tổ chức độc quyền theo kiểu liên
kết ngang thường nắm đến bảy hay tám phần mười tổng sản lượng của một nghành công
nghiệp.
Hai là, để áp đặt địa vị độc quyền của
mình đối với các hoạt động trong nền kinh tế các tổ chức độc quyền đã sự dụng
nhiều thủ đoạn khác nhau như : tước đoạt nguồn nguyên liệu; độc chiếm nguồn
công nhân; khống chế các phương tiện vận tải; tuớc nơi tiêu thu; ký hợp đồng
người mua...
- Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài
chính:
+ Sự hình thành độc quyền trong ngân hàng và
vai trò của ngân hàng: cùng với hình thành độc quyền trong công nghiệp thì
trong ngân hàng cũng diễn ra cạnh tranh quyết liệt, hàng lạot các ngân hàng nhỏ
bị ngân hàng lớn thôn tính, một số ngân hàng nhỏ tự nguyện sát nhập ngân hàng
lớn, một số ngân hàng lớn thì có xu hướng liên minh, thoả thuận với nhau hình
thành độc quyền ngân hàng.
+
Khi độc quyền ngân hàng ra đời thì ngân hàng có một vai trò mới, thể hiện: Giữa
tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp thâm nhập vào nhau thông qua chế độ tham
dự bằng việc mua cổ phiếu để các công ty cử người vào hội đồng quản trị của
ngân hàng và ngược lại thì ngân hàng cử người vào hội đồng quản trị của công
ty. Sự dung nhập giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiẹp bằng cách trên làm
xuất hiện một loại tư bản mới gọi là tư bản tài chính.
+ Tư bản tài chính và đại diện cho nó là bọn
đầu sỏ tài chính, chúng lũng đoạn cả về kinh tế và chính trị.
- về kinh tế: Bằng cổ phiếu khống chế
để nuôi công ty mẹ, chi phối các công ty con, các chi nhánh nhỏ hơn để thu lợi
nhuận cao nhât.
-Về xã hội: bằng sứuc ép tạp đoàn để
nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước.
-Xuất khẩu tư bản: xuất bản ra nước ngoài để kinh
doanh nhằm thu lợi nhuận cao
- Xuất khẩu tư bản
Sự thống trị của độc quyền dưới hình thái tư
bản tài chính là nguyên nhân chủ yếu làm cho xuất khẩu tư bản trở thành phổ
biến, điển hình trong chủ nghĩa tư bản độc quyền. Khác với chủ nghĩa tư bản tư
do cạnh tranh, có đặc trưng chủ yếu là xuất khẩu hàng hoá; dưới chủ nghĩa tư
bản độc quyền xuất khẩu tư bản trở thành phổ bíên và là đặc trưng quan trọng
nhất.
+
Sự liên minh phân chia thị trường thế giới giữa các liên minh độc quyền
Thực
tế cho thấy, các liên minh độc quyền của bọn tư bản như các ten, xanh đica,
tơrot chia nhau trước hết thị truờng trong nước bằng cách chiếm lấy, ít nhiều
hoàn toàn, nền sản xuất trong nước họ. Nhưng dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, thị
trường trong nước lại tất nhiên gắn liền với thị trường bên ngoài.
+
Sự phân chia thế giới về lãnh thỗ giữa các cường quốc.
-
Do hoạt động của quy luật phát triển không đều trong giai đoạn độc quyền thì
một nước đag phát triển có thể đuổi kịp, vựot một số nước đã phát triển.
-
Sự phát triển không đều về kinh tế dẫn đến không đều về quân sự, chính trị làm
thay đổi tưong quan lực lưọng và đòi hỏi phân chia lại lãnh thổ trên thế giới
dẫn đến xung đột quân sự để chia lại lãnh thổ thế giớii, đó là nguyên nhân dẫn
tới 2 cuộc chiến tranh thế giới.
Sự
vận động của xuất khẩu tư bản không những thể hiện mối quan hệ giữa các tổ chức
độc quyền của từng quốc gia với nhau mà còn hể hiện quan hệ giữa các tổ chức
độc quyền thuộc các quốc gia khác nhau. Trong cuộc tranh giành lợi ích của
mình, các tổ chức độc quyền buộc phải thỏa hiệp với nhau trong những chừng mực
nhất định trong việc phân chia lãnh thổ, lĩnh vực đầu tư, ngồn nguyên, nhiên
liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm trên phạm vi toàn thế giới.
Do
đó, phát triển của xuất khẩu tư bản tới một trình độ nhất định tất yếu dẫn tới
sự phân chia Thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền.
-
Sự phân chia thị trường thế giới giữa các liên minh
độc quyền.
Dưới
tác động của xuất khẩu tư bản, sự tập trung sản xuất trên phạm vi quốc tế diễn
ra trong nhiều ngành kinh tế khác nhau , từ đó dẫn đến sự hình thành các tổ
chức độc quyền quốc tế trong từng ngành thông qua thỏa thuận giữa các tổ chức
độc quyền thuộc các quốc gia khác nhau. Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa
các tổ chức độc quyền các nước được thực hiện trên cơ sở so sánh sức mạnh kinh
tế của từng chủ thể, do vậy không thể ổn định lâu dài. Lực lượng so sánh thay
đổi do nhiều nguyên nhân: sự phát triển không đều, chiến tranh, phá sản,… đã
làm cho việc phân chia thế giới không loại trừ sự phân chia lại.
Mặc
dù các liên minh của tư bản tài chính là các quan hệ nhất định đã được xác lập
trên cơ sở phân chia thế giới về kinh tế, nhưng song song và gắn liền với tình
hình đó thì giữa các liên minh chính trị, giữa các nước, những quan hệ nhất
định cũng được xác lập trên cơ sở phân chia thế giới về lãnh thổ, tranh giành
thuộc địa, tranh giành lãnh thổ kinh tế.
- Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa
các cường quốc.
Sau
thời kỳ chiếm ưu thế của chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, những cuộc xâm
chiếm thuộc địa bắt đầu tăng lên rất mạnh do nhu cầu xuất khẩu tư bản, và cuộc
đấu tranh để phân chia lãnh thổ trên thế giới trở nên vô cùng gay gắt. Cho nên
bước chuyển của chủ nghĩa tư bản sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền,
sang tư bản tài chính, gắn liền với cuỗ đấu tranh ngày càng gay gắt nhằm phân
chia thế giới giữa các cường quốc đại diện cho lợi ích của các tập đoàn tư bản
tài chính các nước khác nhau.
Cách
giải quyết mâu thuẫn về thị trường gắn liền mâu thuẫn về lãnh thổ giữa các
cường quốc thường chỉ có thể thực hiện được bằng bạo lực chiến tranh.
Đối
tượng phân chia lại lãnh thổ khoông những bao gồm các thuộc địa của những đại
cường quốc mà cả những thuộc địa nhỏ của những nước nhỏ, những nước nửa thuộc
địa với tư cách là những hình thức quá độ.
Chủ
nghĩa tư bản phát triển càng cao, nguyên liệu càng thiếu thốn, sự cạnh tranh
ngày càng gay gắt và việc tìm kiếm các nguồn nguyên liệu trên toàn thế giới
càng ráo riết thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc địa càng quyết liệt hơn. Lợi
ích của việc xất khẩu tư bản cũng thúc đẩy xâm chiếm thuộc địa.
Những
lợi thế về thuộc địa thường được các cường quốc, đế quốc đánh giá là yếu tố
quyết định ưu thế của chúng, thể hiện sự hy vọng chiếm được những của cải lớn
chưa đánh giá được.
Do
đó điểm tiêu biểu của chủ ngĩa đế quốc chính là ở chỗ nó có xu hướng thôn tính
không những các vùng nông nghiệp mà thậm chí cả những vùng có nhiều công nghiệp
nhất.
Điểm
trọng yếu của chủ nghĩa đế quốc là sự cạnh tranh của một số cường quốc lớn muốn
chiếm bá quyền, nghĩa là muốn đi xâm chiếm đất đai, chủ yếu không phải nhằm
trực tiếp chiếm cho bản thân mình mà nhằm làm suy yếu đối thủ và đánh đổ bá
quyền của đối thủ.
Post a Comment