[Câu hỏi ôn tập] 3 Câu - Bài 6 - CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

 

BÀI 6: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

 

Câu 1: Làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội?

* Tính tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa

    Sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa là hoàn toàn tất yếu và mang tính quy luật. Sự ra đời của hình thái này bị chi phối bởi các quy luật:

- Thứ nhất: quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

   Tương ứng với trình độ của LLSX là một QHSX nhất định. Khi LLSX phát triển đến trình độ nào đó thì QHSX cũ sẽ không còn phù hợp, gây cản trở cho sự phát triển của LLSX. Mâu thuẫn sẽ được giải quyết bằng việc phá vỡ QHSX cũ, hình thành QHSX mới tiến bộ, phù hợp kéo theo sự thay đổi của phương thức sản xuất nói riêng và hình thái KT-XH nói chung.

- Thứ hai: Quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.

   Nhà nước dân chủ XHCN, nhà nước pháp quyền XHCN, đại diện cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động và lôi cuốn nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Nhà nước XHCN phải vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ, hoàn toàn đối lập với nhà nước tập trung quan lieu, độc tài. ĐCS phải thật sự trở thành lực lượng lãnh đão Nhà nước và lãnh đạo xã hội.

- Thứ ba: Quy luật cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.

   Sự tham gia tự giác, đóng góp sáng tạo của nhân dân dưới sự dưới sự lãnh đạo của ĐCS, sự quản lý của Nhà nước XHCN và việc phát huy dân chủ nhân dân từ Mặt trận Tổ Quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị XHCN là những nhân tố quyết định cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa.

Từ những quy luật trên cho thấy hình thái KT-XH cộng sản chủ nghĩa ra đời là tất yếu khách quan mang tính phổ biến, song đây là quá trình lâu dài, đầy khó khăn, phức tạp.

* Hình thái KT-XH cộng sản chủ nghĩa có 2 giai đoạn hình thành đó là:
Giai đoạn đầu (giai đoạn thấp) và Giai đoạn sau (giai đoạn cao). Sau này V.I.Lênin đã gọi giai đoạn đầu là CNXH (hay xã hội XHCN), giai đoạn sau là chủ nghĩa cộng sản (xã hội cộng sản chủ nghĩa).

* Những đặc trưng bản chất của xã hội XHCN

- Đặc trưng chính trị - cốt lõi là xây dựng nền dân chủ XHCN.

   Trong giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội CSCN (thời kỳ xã hội XHCN), giai cấp công nhân và chính đảng của mình phải giành lấy quyền thống trị và phải dành lấy dân chủ, bắt tay vào tổ chức xây dựng xã hội mới mà vấn đề cốt lõi là thiết lập chế độ dân chủ XHCN nhằm thay thế cho dân chủ tư sản. Đây là đặc trưng chính trị căn bản nhất của xã hội XHCN.

   Dân chủ XHCN là nền dân chủ mà ở đó dân chủ với nghĩa toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Bản chất của dân chủ XHCN được thể hiện trên tất cả các khía cạnh của đời sống.

+ Bản chất chính trị:

   Dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân, quyền lực của nhân dân được thực hiện trên mọi lĩnh vực, thể hiện qua các quyền dân chủ, quyền làm chủ, quyền con người và những nhu cầu về vật chất và tinh thần của nhân dân được thỏa mãn ngày càng cao.

   Bản chất chính trị của nền dân chủ XHCN là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong là ĐCS đối với toàn xã hội. ĐCS đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của toàn nhân dân. Nhân dân lao động là những người làm chủ những quan hệ chính trị trong xã hội, có quyền tham gia rộng rãi vào đời sống chính trị.

   Xét về bản chất chính trị, dân chủ XHCN vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc. Do vậy, nền dân chủ XHCN khác về chất so với nền dân chủ tư sản ở bản chất giai cấp.

+ Bản chất kinh tế:

   Nền dân chủ XHCN dựa trên chế độ sở hữu xã hội về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học và công nghệ hiện đại nhằm thảo mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.

Dưới góc độ kinh tế, dân chủ XHCN được biểu hiện là sự đảm bảo về lợi ích kinh tế, coi lợi ích kinh tế của người lao động là động lực cơ bản nhất có sức thúc đẩy KT-XH phát triển.

+ Bản chất tư tưởng – văn hóa:

   Nền dân chủ XHCN lấy hệ tư tưởng Mắc-Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm chủ đạo; đồng thời kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng – văn hóa, văn minh,tiến bộ xã hội mà nhân loại đã tạo ra…Trong nền dân chủ XHCN, nhân dân được làm chủ những giá trị văn hóa tinh thần; được nâng cao trình độ văn hóa, được thụ hưởng những giá trị văn hóa và có điều kiện để phát triển cá nhân.

- Đặc trưng kinh tế

   Ở XHCN, nền kinh tế phát triển cao với lực lượng sản xuất tiến bộ hiện đại và quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và ngày càng hoàn thiện. Đặc trưng kinh tế này được vận dụng ở các quốc gia, dân tộc sao cho phù hợp với các loại hình quá độ lên CNXH với đặc điểm riêng của từng nước.

- Đặc trưng xã hội, quan hệ giữa người và người

   Tạo ra quan hệ xã hội tốt đẹp, công bằng, bình đẳng (ở mức tương đối) giữa các giai cấp, các tầng lớp, các nhóm dân cư, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị với nông thôn, tạo điều kiện xóa bỏ sự khác biệt bằng việc thu hẹp dần khoảng cách phát triển và sự chênh lệch, khác biệt.Thực hiện bình đẳng dân tộc, tộc người, tôn giáo, tín ngưỡng, được tự do tín ngưỡng, tôn giáo được tôn trọng, bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Quan hệ xã hội tốt đẹp còn được thể hiện trong quan hệ tốt đẹp giữa người với người xong xã hội XHCN.

- Đặc trưng văn hóa

   Các giá trị văn hóa vật chất, tinh thần đều được tôn trọng, bảo vệ. Phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, quốc gia, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, đời sống văn hóa tinh thần ưu việt, tiến bộ, tốt đẹp là thể hiện đặc trưng về văn hóa của xã hội XHCN.

- Đặc trưng trong quan hệ đối ngoại

   CNXH, CNCS thống nhất với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. CNCS, CNXH mang tính quốc tế nhưng trước hết phải xây dựng thành công xã hộ XHCN trong từng nước. Quan hệ đối ngoại phải tuân thủ nguyên tắc: hòa bình, hữu nghị, hợp tác, cùng có lợi, không xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của nhau. Lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế được giải quyết hài hòa, phù hợp trong quá trình xây dựng CNXH.

Câu 2: Làm rõ tính tất yếu của sự lựa chọn con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam?

   Nước ta có khả năng tiến thẳng lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN vì chúng ta có được những điều kiện khách quan và chủ quan của con đường quá độ tiến thẳng lên CNXH mà bỏ qua chế độ TBCN mà Lênin đã đưa ra. 
* Về khả năng  khách quan:

- Chúng ta quá độ đi lên CNXH trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp hiện đại trên thế giới đang phát triển hết sức mạnh mẽ làm cho lực lượng sản xuất mang tính quốc tế hóa ngày càng cao và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong quá trình phát triển ngày càng lớn. Do đó các nước phải mở rộng kinh tế với bên ngoài, đó là xu thế tất yếu của thời đại, trong quá trình đó cho phép chúng ta có thể tranh thủ tận dụng được những thế mạnh từ bên ngoài, đặc biệt là vốn, công nghệ tiên tiến hiện đại, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường v.v....

Sự phát triển của cách mạng khoa học –công nghệ về khách quan đã tạo ra những khả năng để các nước kém phát triển đi sau có thể tiếp thu và vận dụng vào nước mình những thành tựu khoa học- công nghệ hiện đại của thế giới và những kinh nghiệm của các nước đi trước để thực hiện “ Con đường phát triển rút ngắn” 

- Xu thế toàn cầu hoá khắc phục khó khăn về nguồn vốn và kỹ thuật hiện đai cho các nước chậm  phát triển nếu có đường lối, chính sách đúng. Trong diều kiện đó, cho phép và buộc chúng ta phải biết tranh thủ cơ hội, tận dụng, khai thác, sử dụng có hiệu quả những thành tựu mà nhân lọai đã đạt được để rút ngắn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

- Nhân dân ta đã tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược rất tốn kém. Về thực chất hai cuộc kháng chiến đó chính là chống TBCN. Khi hòa bình chúng ta không thể quay lại phát triển nền kinh tế nước ta theo con đường TBCN, hơn nữa nền kinh tế tư bản từ khi ra đời đều thể hiện bản chất áp bức, bóc lột, bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của TBCN nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra.

Trên thế giới đã có nhiều nước phát triển theo con đường TBCN nhưng kết quả chỉ có một số ít nước có nền kinh tế phát triển. Còn lại theo nhận xét của Kissingter (một nhà tư bản tài chính) thì Châu Phi đói, Châu Á nghèo, Châu Mĩ La Tinh nợ nần chồng chất. 

* Về những tiền đề chủ quan:

- Việt nam là nước có dân số tương đối đông, nhân lực dồi dào, tài nguyên đa dạng, đặc biệt là tiềm năng ý chí và trí tuệ của con người Việt Nam. Nhân dân đã lập nên chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, đã xây dựng những cơ sở ban đầu về chính trị, kinh tế của chủ nghĩa xã hội. So sánh với Liên Xô trước đây khi bắt đầu thời kỳ quá độ, ta tuy có mặt yếu nhưng cũng có những mặt thuận lợi hơn trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.

- Cách mạng Việt Nam do ĐCS Việt Nam lãnh đạo – một Đảng giàu tinh thần cách mạng, sáng tạo, khoa học và trí tuệ, có đường lối đúng đắn và gắn bó với quần chúng – đó là nhân tố chủ quan có ý nghĩa vô cùng, đảm bảo cho thắng lợi của công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

- Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và sự quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng vật chất đủ sức vượt mọi khó khăn và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

- Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo bắt đầu từ đại hội VI  đến nay đã thu được những kết quả khả quan, giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường hợp tác đầu tư; phát triển kinh tế; đời sống nhân dân được cải thiện... điều đó đã củng cố và khẳng định con đường lựa chon đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn.

- Nhận thức đúng nội dung của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có ý nghĩa thực tiễn quan trọng giúp ta khắc phục được quan niệm đơn giản duy ý chí về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước phát triển.

- Đại hội IX nêu rõ: con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuât và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dứoi chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế cơ bản. Đi lên CNXH là sự lựa chọn phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn Cách mạng Việt Nam. Chỉ có CNXH mới đảm bảo cho dân tộc ta có độc lập, tự do thực sự, đất nước phát triển phồn vinh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc

Câu 3: Phân tích nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới?

   Trước thời kỳ đổi mới, lý luận của Đảng ta về CNXH ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của ĐCS đã nghiêm khắc tự phê bình, chỉ ra những yếu kém trong tư duy, lý luận của Đảng nói chung và tư duy lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam nói riêng. Từ đã chủ trương đổi mới toàn diện, bắt đầu từ tư duy, nhận thức về lý luận Mácxít, trong đó có tư duy, nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.

   Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), ĐCS Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác địng 6 đặc trưng của xã hội XHCN, và sau 20 năm thực hiện, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng đã bổ sung thành 8 đặc trưng của xã hội XHCN Việt Nam. Cụ thể là:

- Đặc trưng thứ nhất: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

   Đây là đặc trưng khái quát nhất bao trùm hệ mục tiêu cần đạt tới của cả thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, hoàn thiện từng bước XHCN phù hợp với nhu cầu, đặc điểm thực tế của Việt Nam trên các phương diện.

- Đặc trưng thứ hai: Do nhân dân làm chủ.

   Đặc trưng này thể hiện bản chất dân chủ rộng rãi, mọi quyền lực thuộc về nhân dân.

- Đặc trưng thứ ba: Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.

 Thể hiện cách nhìn nhận mới về chế độ sở hữu trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, đồng thời cho thấy “tính mở” trong phát triển các thành phần kinh tế.

- Đặc trưng thứ tư: Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Đặc trưng thứ năm: Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

   Đây là đặc trưng về quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với người trong xã hội XHCN ở Việt Nam.

- Đặc trưng thứ sáu: Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển.

Xác định phong phú hơn nội dung bao trùm của chính sách dân tộc, giải quyết đúng đắn các quan hệ tộc người trong quốc gia đa dân tộc ở Việt Nam.

- Đặc trưng thứ bảy: Có nhà nước pháp quyền XHCN, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do ĐCS lãnh đạo.

   Làm rõ bản chất của nhà nước CHXHCN ở Việt Nam; mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân; giữa ĐCS với Nhà nước.

- Đặc trưng thứ tám: Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

   Làm rõ hơn việc hội nhập quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hiện nay với tinh thần tăng cường hội nhập quốc tế cả chiều rộng và chiều sâu.

   8 đặc trưng của xã hội XHCN được điều chỉnh, bổ sung thể hiện tinh thần khoa học, tôn trọng và tổng kết thực tiễn ở Việt Nam để bổ sung, phát triển lý luận của Đảng ta, trong đó có lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.

Câu 4: Phân tích nhận thức của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới?

   Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã bổ sung, điều chỉnh các phương hướng từ năm 1991 và năm 2006 để có 8 phương hướng cơ bản nhằm thực hiện thành công các mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kì quá độ ở nước ta:

- Một là, Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế trí thức, bảo vệ tài nguyên, môi truờng.

   Tư duy mới trong phương hướng này là coi trọng việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế trí thức và bảo vệ tài nguyên môi truờng để đảm bảo phát triển nhanh và bền vững.

- Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

  Trong cách thức diễn đạt phương hướng lần này đã tách việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN khỏi công nghiệp hoá, hiện đại hoá để thấy được định hướng phát triển nền kinh tế thị trường là định hướng quan trọng xuyên suốt cả thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

- Ba là, Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

  Đây là phưưong hướng xác định xây dựng nền văn hoá ở Việt Nam gắn với xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân.

- Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

  Phương hướng này cho thấy nhận thức mới của Đảng ta về nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc XHCN trong gắn bó với việc bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện vững chắc để xây dựng thành công CNXH.

- Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động tích cực hội nhập quôc tế.

   Nhận thức mới từ phương hướng này đã tách riêng đường lối đối ngoại độc lập, một mặt vẫn khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Nhận thức mới từ phương hướng này là đã tách riêng đường lối ngoại thành một phương hướng độc lập, một mắt vẫn khẳng định đường lối độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đồng thời luôn chủ động và tích cực trong hội nhập quốc tế theo chiều rộng và chiều sâu,

- Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tăng cường mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.

   Cùng với xây dựng nền dân chủ XHCN là kiên trì thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm gắn dân chủ với đồng thuận xã hội, phát huy vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất trong quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.

- Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do dân, vì nhân dân.

   Nhằm xây dựng một nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, là điểm mới trong việc tiếp thu tinh hoa nhân loại về nhà nước pháp quyền.

- Tám là, xây dựng đảng trong sạch,vững mạnh.

   Phương hướng này có kế thừa nội dung phương hướng đã xác định từ cương lĩnh 1991. Tuy nhiên, diễn đạt gọn, rõ hơn là cần phải xây dựng một đội ngũ Đảng trong sạch, vững mạnh.

   Và Đảng đã chỉ ra 9 mối quan hệ cần phải tiếp tục quán triệt và xử lý tốt trong nhận thức của Đảng về con đuờng đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới.

- Một là, quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển.

   Đây là vấn đề nổi lên đòi hỏi phải nhận thức, giải quyết đúng đắn. Đổi mới vừa phải bảo đảm ổn định và phát triển.

- Hai là, quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị

   Mối quan hệ này đã và đang diễn ra với những đòi hỏi phải nắm bắt, giải quyết đúng đắn, kip thời trong toàn bộ hệ thống chính trị của các cấp, các ngành, từ Tung ương đến cơ sở.

Đổi mới kinh tế là trọng tâm, là then chốt, song nếu chỉ đổi mới kinh tế thuần tuý thì không đạt được mục đích chung đã đề ra. Cùng với đổi mới kinh tế phải từng bước đổi mới chính trị (chính trị theo nghĩa rộng, bao gồm cả tư tưởng chính trị, chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật.. đến tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị để theo kịp yêu cầu của đổi mới kinh tế và tạo tiền đề mới cho đổi mới kinh tế.

- Ba là, quan hệ giữa tuân theo quy luật của thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.

   Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà Việt nam thực hiện là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị truờng, đồng thời đảm bảo định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu” dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”

- Bốn là, quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

   Phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng sức sản xuất là phương châm hoàn toàn đúng đắn ở Việt Nam hiện nay.

- Năm là, quan hệ giữa nhà nước và thị trường.

   Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất, các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.

- Sáu là, quan hệ giữ tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

   Tăng truởng kinh tế không phải bằng mọi giá mà phải coi trọng phát triển văn hoá, đồng thời còn phải thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, giải quyết các lợi ích phù hợp hài hoà giữa cá nhân - tập thể - toàn xã hội.

- Bảy là, quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

   Đất nước thống nhất, độc lập, tự do, luôn phải đặt trong quan hệ gắn bó với chủ nghĩa xã hội - xây dựng và bảo vệ tổ quốc phải thực sự là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay.

- Tám là, quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.

   Công cuộc đổi mới đã từng buớc cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nhận thức và giải quyết đúng mối quan hệ giữa độc lập tự chủ của quốc gia dân tộc và hội nhập quốc tế cả chiều rộng lẫn chiều sâu.

- Chín là, quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

   Đây là mối quan hệ thể hiện cơ chế vận hành thể chế dân chủ, đẩy mạnh dân chủ hoá ở Việt Nam hiện nay.

   Tám phương hướng quá độ lên XHCN là những định hướng để xây dựng CNXH. Chín mối quan hệ lớn cần quán triệt và xử lý tốt là phương thức giải pháp cấp bách cần thực hiện để bảo đảm chính xác nhận thức của Đảng ta về con đường đi lên CNXH trong thời kỳ đổi mới ở nuớc ta.

 

 

 

Post a Comment

Previous Post Next Post