[Thảo luận] Sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX ở Việt Nam hiện nay

Sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX ở Việt Nam hiện nay

 A, MỞ BÀI

           Để nền kinh tế của một đất nước phát triển thật sự nó được chi phối bởi rất nhiều yếu tố, trong đó có quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX, đây là một quy luật hết sức phổ biến và đóng vai trò quan trọng  trong công cuộc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia. Sự mâu thuẫn hay phù hợp của nó đều có những ảnh hưởng nhất định đến cơ cấu cũng như sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Sự thống nhất mối quan hệ giữa LLSX và QHSX tạo nên một nền kinh tế có lực lượng phát triển, và kéo theo đó là một QHSX tiến bộ. Để hiểu rõ hơn về mối quan hệ này em xin bàn về vấn đề: Sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX ở Việt Nam hiện nay.

 

B, NỘI DUNG

   I, Lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

    1, Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất

     - Lực lượng sản xuất ( LLSX) là sự kết hợp giữa người lao động ( sức khỏe thể chất, kinh nghiệm,..) với tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động để tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định.

      - LLSX gồm hai yếu tố cơ bản: người lao động và TLSX nhất định. Các yếu tố trong LLSX không thể tách dời nhau. Chúng có quan hệ hữu cơ với nhau trong đó yếu tố con người giữ vị trí hàng đầu, TLSX đóng vai trò rất quan trọng.

   2, Khái niệm và kết cấu của QHSX

     - Quan hệ sản xuất (QHSX) là những quan hệ cơ bản giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).

     - QHSX kết cấu gồm có ba mặt: quan hệ sở hữu đối với TLSX, quan hệ tổ chức, quản lí sản xuất và quan hệ phân phối kết quả sản xuất. Ba mặt quan hệ này thống nhất với nhau, mỗi mặt đều có tác động kích thích , thúc đẩy hoặc cản trở, kìm hãm những mặt khác. Trong đó, quan hệ sở hữu đối với TLSX đóng vai trò quyết định hai mặt kia.

     QHSX mang tính khách quan, nó được hình thành trong quá trình phát triển lịch sử không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. QHSX là quan hệ cơ bản quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác của con người.

   3, Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX.

      Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó LLSX quyết định QHSX và QHSX tác động ngược trở lại LLSX.

     -Vai trò quyết định của LLSX đối với sự hình thành và biến đổi của QHSX:

      +Tương ứng với một trình độ phát triển nhất định của LLSX tất yếu đòi hỏi phải có  một QHSX phù hợp với nó trên cả ba mặt của QHSX đó.

       + Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi và phát triển. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của LLSX mà trước hết là công cụ lao động. Từ sự biến đổi của LLSX này mà QHSX phải biến đổi cho phù hợp.

      + LLSX thường biến đổi nhanh hơn ( yếu tố người lao động luôn thúc đẩy sự phát triển của nó), còn QHSX thường biến đổi chậm hơn (vì QHSX bị quy định bởi quan hệ về sở hữu TLSX bị níu giữ bởi yêu cầu phải bảo đảm lợi ích của giai cấp thống trị hiện đang nắm giữ quyền sở hữu TLSX.

      Do đó, sự phát triển của LLSX khi đạt đến một trình độ nhất định sẽ mâu thuẫn gay gắt với QHSX hiện có, đòi hỏi tất yếu phải phá bỏ QHSX lỗi thời và thay thế bằng QHSX mới phù hợp.

      -Tác động ngược lại của QHSX đối với LLSX.

       + QHSX quy định mục đích, cách thức sản xuất và cách thức phân phối những lợi ích từ quá trình sản xuất do đó nó trực tiếp tác động tới thái độ của người lao động, tới năng suất, chất lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất và cải tiến công cụ lao động.

      + Sự tác động của QHSX với LLSX diễn ra theo hai xu hướng:

         Một là, Nếu QHSX phù hợp với trình độ của LLSX thì sẽ thúc đẩy LLSX phát triển.

         Hai là, Nếu QHSX không phù hợp với trình độ của LLSX thì sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.

         Quy luật này là quy luật cơ bản , quan trọng tác động tới toàn bộ quá trình lịch sử nhân loại, ở đó LLSX không ngừng phát triển phá vỡ sự phù hợp về mặt trình độ của QHSX đối với nó dẫn tới việc phá bỏ QHSX đã lỗi thời thay thế bằng QHSX tiến bộ hơn. Quá trình đó lặp đi lặp lại làm cho xã hội loài người trải qua những phương thức sản xuất từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội.

  II, Thực tiễn sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX ở Việt Nam hiện nay

         1, Thời kì trước đổi mới (trước 1986)

         Trước thời kì đổi mới nước ta nước ta có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp và sự thể hiện quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX biểu hiện cụ thể:

         +Nước ta đã thiết lập một chế độ công hữu về tư liệu sản xuất một cách ào ạt, trong khi đó đang tạo địa bàn cho sự phát triển LLSX (vi phạm tính lịch sử cụ thể).

          + Đồng thời, trong quá trình cải tạo nền sản xuất chỉ tập trung cải tạo QHSX, chủ trương xây dựng QHSX tiến bộ mở đường cho LLSX phát triển (đi ngược lại với quy luật QHSX phù hợp với phát triển của LLSX).

        Thực tế vận dụng quy luật này cho thấy chúng ta đã quá coi trọng vai trò của QHSX và cho rằng có thể đưa QHSX đi trước để mở đường, thúc đẩy LLSX cùng phát triển. Việc áp dụng quan niệm ấy là hoàn toàn sai lầm, minh chứng cho điều đó là LLSX trong thời gian qua thấp kém, QHSX được duy trì ở trình độ quá cao. Từ đó làm mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển LLSX với hình thức kinh tế - xã hội được áp đặt một cách chủ quan trên đất nước ta. Mâu thuẫn đó đã để lại nhiều hậu quả nặng nề cho nền kinh tế nước nhà: kinh tế chậm phát triển, sản xuất trì trệ, tăng trưởng chỉ đạt 0,4% (trong khi chỉ tiêu đặt ra là 13-14%), tình trạng thiếu lương thực diễn ra gay gắt, năm 1980 phải nhập khẩu 1,576 triệu tấn lương thực, ngân sách thiếu hụt, giá cả hàng năm tăng 20%, nhập khẩu chiếm 4-5 phần xuất khẩu. Nhà nước thiếu vốn đầu tư cho nền kinh tế, hàng tiêu dùng thiếu trầm trọng,..Qua đó, ta có thể thấy một thực tế của việc làm trái quy luật đã gây ra hậu quả nặng nề cho nền kinh tế đất nước là rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Như vậy, QHSX không phù hợp với trình độ LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.

       2, Sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay

         a,Trình độ phát triển của LLSX ở Việt Nam hiện nay: . “người ta không được tự do lựa chọn lực lượng sản xuất cho mình... vì mọi lực lượng sản xuất là lực lượng đã đạt được, tức là một sản phẩm của một hoạt động đã qua... không phải do họ tạo ra, mà do thế hệ trước tạo ra... Mỗi thế hệ sau đã có sẵn những lực lượng sản xuất do những thế hệ trước xây dựng lên và được thế hệ mới dùng làm nguyên liệu cho sự sản xuất mới, ...'' [1].

            -Thứ nhất, là trình độ của người lao động: đã được nâng cao rõ rệt và không ngừng tăng cao, cụ thể: tỉ lệ người lao động đã qua đào tạo có xu hướng tăng nhanh từ 9.357.532 người năm 2003 ( chiếm 22,5% tổng số lao động của cả nước) lên 10.770.688 người năm 2005 ( chiếm 25% tổng số lao động của cả nước) trong đó, số lao động có trình độ cao đẳng, đại học là 5.708.465 người ( chiếm 5,3 %) . Người lao động năng động, sáng tạo, cần cù, chịu khó,…kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con người Việt Nam cũng khác nhau: có kinh nghiệm và kĩ năng của người lao động cơ khí, máy móc, có kinh nghiệm và kĩ năng của người lao động đối với máy móc hiện đại, tự động hóa,… Từ đó, trình độ tổ chức và phân công lao động, trình độ ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất ở Việt nam hiện nay đã có nhiều tiến bộ. Qua đó, cho thấy trình độ chuyên môn tay nghề của lao động nước ta đang có những chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu cũng như đòi hỏi thực tế của nền kinh tế đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.

           -Thứ hai, là trình độ của tư liệu sản xuất tiến bộ hơn so với thời kì trước đổi mới cụ thể:

              + Công cụ lao động hiện đại hơn với sự đầu tư, mua mới nhiều máy móc, công cụ hiện đại vào trong quá trình sản xuất góp phần làm cho năng suất lao động tăng cao, giảm bớt được chi phí sức lao động. Điển hình, trước thời kì đổi mới chúng ta sử dụng trâu, bò để cày, máy móc đưa vào sản xuất còn hạn chế và thô sơ. Nhưng đến giai đoạn hiện nay, đã được thay bằng máy cày,…việc sản xuất đã được trang bị bởi một hệ thống máy móc hiện đại nhập khẩu từ nước ngoài góp phần làm cho nền kinh tế đất nước phát triển nhanh. Như Các – Mác nói: “Các cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”[2]. Và cái cối xay hiện nay không phải quay bằng tay, không phải chạy bằng hơi nước mà là tự động hóa.       

              + Đối tượng lao động hiện nay cũng hiện đại hơn rất nhiều: nếu trước đây với nền văn minh nông nghiệp thì đối tượng lao động chủ yếu là ruộng đất còn trong giai đoạn hiện nay, với nền văn minh cơ khí thì đối tượng lao động được mở rộng với các nguyên liệu như: than đá, chất đốt, dầu khí,…Tất cả tạo điều kiện cho sự phát triển ngày càng hiện đại của lực lượng sản xuất.

         b,Những QHSX đang được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với trình độ phát triển của LLSX

            QHSX chúng ta thiết lập và xây dựng hiện nay là QHSX trong nền kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là QHSX xã hội chủ nghĩa tiến bộ vì nó hơn hẳn QHSX phong kiến và QHSX tư bản chủ nghĩa ( có bản chất bóc lột và ngày càng tỏ ra lỗi thời không phù hợp với lịch sử). Và QHSX xã hội chủ nghĩa sẽ dần xóa bỏ áp bức bóc lột đưa mọi thành viên trong bộ máy sản xuất và cả xã hội đến ấm no, hạnh phúc.

           - Đa dạng hóa các hình thức sở hữu: Do trình độ của LLSX ở nước ta hiện nay đa dạng, không đồng đều, nhiều trình độ do đó nước ta phải xây dựng một QHSX phù hợp. Cùng với tiến trình xã hội hóa lực lượng sản xuất do công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang lại, con đường cơ bản của sự phát triển “ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự hình thành đa dạng các hình thức sở hữu hỗn hợp, đan kết lẫn nhau giữa hai nhân tố công hữu và tư hữu bằng những hình thức kinh tế trung gian quá độ. Trong đó, nhân tố công hữu sẽ ngày càng tăng lên thông qua một quá trình tích lũy về lượng bằng những định hướng của Nhà nước phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và theo đó yếu tố công hữu sẽ ngày càng làm tốt hơn vai trò chi phối và chủ đạo trong nền kinh tế[3]. Các hình thức kinh tế quá độ để chuyển tư hữu thành công hữu là rất đa dạng. Thực tiễn cuộc sống và sự phát triển tư duy lý luận sẽ ngày càng bổ sung thêm những hình thức mới. Cho đến nay chúng ta có thể khẳng định, để chuyển tư hữu thành công hữu không chỉ bằng con đường tịch thu, quốc hữu hóa hay bằng chủ nghĩa tư bản nhà nước, mà còn có thể bằng phát triển rộng rãi các hình thức của kinh tế hợp tác, các công ty cổ phần và các tổ chức kinh tế của những người lao động làm chủ, liên doanh, liên kết. Đa dạng có nghĩa là chúng ta xây dựng một nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu nhà nước giữ vị trí chủ đạo và then chốt trong nền kinh tế quốc dân. Điều này hoàn toàn phù hợp với LLSX ở nước ta hiện nay. Quan hệ sở hữu đang ngày càng tiến bộ vì nó đang vận hành theo hướng hạn chế đến mức tối thiểu những tiêu cực trong quá trình sản xuất và phấn đấu đi đến xóa bỏ áp bức bóc lột đem lại cuộc sống  ấm no, hạnh phúc cho toàn xã hội.

           - Xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần: trải qua thời kì chiến tranh nước ta đã và đang từng bước vượt qua khó khăn, hoàn thiện tiến dần tới sự tiến bộ và phù hợp. Nếu trước kia chúng ta chỉ công nhận sự tồn tại của hai thành phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Một ví dụ minh chứng cụ thể cho sự tồn tại của thành phần kinh tế cũ này là: ở nước ta tồn tại mô hình hợp tác xã, mô hình này trước thời kì đổi mới là các hợp tác xã mang tính chất ép buộc ( buộc mọi người vào làm trong hợp tác xã), tính công theo ngày không quan tâm tới năng suất, hiệu quả, tinh thần trách nhiệm của mọi thành viên trong hợp tác, cũng như lợi ích của người lao động, công cụ lao động thủ công nên người này chăm chỉ, người khác vẫn có thể lười biếng. Từ thực trạng tiêu cực đó nước ta không thể duy trì hai thành phần kinh tế đó nữa mà cần có sự đa dạng, mở rộng với việc công nhận thêm các thành phần kinh tế khác: thành phần kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản, tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó,  kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh  dưới sự lãnh đạo của Đảng và  sự quản lí của nhà nước nhằm tạo ra sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế và giữ được sự ổn định về chính trị, gắn với công bằng xã hội.       

         Như vậy, việc xây dựng và hoàn thiện các QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX hiện có: QHSX xã hội chủ nghĩa là QHSX ở trình độ cao có tác động mở đường cho sự phát triển của LLSX. Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa quan trọng: nền kinh tế tăng trưởng liên tục, chế độ bao cấp bị xóa bỏ. “Cùng với việc thực hiện kế hoạch 5 năm ( 1991-1995) nước ta đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt: lao động có việc làm tăng nhanh, mỗi năm tạo ra hàng trăm việc làm mới, GDP đầu người đạt 1.300USD/ năm ( năm 2011)”[4].

          + Nông nghiệp phát triển toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi, sản lượng lương thực tăng, Việt nam từ một nước thiếu lương thực đến nay đã trở thành đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo.

         + Công nghiệp tăng liên tục do có sự đầu tư lớn ở cả trong và ngoài nước, nhưng quan trọng là có sự đổi mới về cơ chế, chính sách quản lí của Nhà nước, xóa bỏ bao cấp, nhận vốn đầu tư nước ngoài,…

        Những thành tựu đạt được là kết quả của con đường đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Nó là kết quả của nhận thức đúng đắn quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển LLSX để phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.

     III, Một số phương hướng để tiếp tục vận dụng đúng đắn quy luật này ở Việt Nam

       - Không ngừng phát triển LLSX thông qua việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển khoa học công nghệ, giáo dục, đào tạo.

       - Không ngừng xây dựng và phát triển các QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thông qua việc xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.      

       - Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường.

       - Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường.

       - Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

C, KẾT LUẬN

            Qua phần phân tích trên ta thấy được mối quan hệ mật thiết giữa phát triển LLSX với xây dựng hoàn thiện từng bước QHSX trong thời kì quá độ là mối quan hệ biện chứng, không tách dời nhau. Qua đó, đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh việc phát triển mạnh mẽ LLSX với một trình độ khoa học công nghệ ngày càng cao làm cơ sở cho việc lựa chọn, vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ của LLSX. Góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển với tốc độ nhanh, bền vững, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân cả nước.

         Trong quá trình làm bài tập em đã có sự cố gắng, tìm hiểu song không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ quý thầy cô để bài tập được hoàn thiện hơn.

 

Post a Comment

Previous Post Next Post