BÀI GIẢNG VỀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CƠ SỞ
1.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁN BỘ CÔNG CHỨC CƠ SỞ
1.1.
Khái niệm và phân loại cán bộ, công chức cơ sở
-
Khái niệm cán bộ công chức
Khoản 1 Điều 4 quy định về cán bộ:
“ Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử,
phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng
cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội ở
trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp
tỉnh), ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
Khoản 2 Điều 4 quy định về công chức:
“Công chức là công
dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ
quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của ĐCS Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với
công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì
lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của
pháp luật”.
- Khái niệm và chức danh cán bộ cơ
sở
Khoản 3 điều 4 Luật CBCC qui định:
Cán bộ cơ sở (xã,
phường, thị trấn) là công dân Việt
Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị
- xã hội.
·
Chức
danh cán bộ cơ sở
+ Bí thư, phó bí thư đảng uỷ, thường trực
Đảng ủy cấp xã (nơi không có phó bí thư chuyên trách công tác Đảng); Bí thư,
phó bí thư chi bộ xã (nơi chưa thành lập đảng ủy cấp xã);
+ Chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân
dân;
+ Chủ tịch, phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
+ Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc;
+
Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
+
Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ;
+
Chủ tịch Hội nông dân (áp dụng đối với những xã, phường, thị trấn có hoạt động
nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam);
+
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh.
1.1.2.
Khái niệm và chức danh công chức cơ sở
Công chức cơ sở (xã, phường, thị trấn) là
công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc
UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
·
Chức
danh công chức cơ sở
+ Trưởng Công an (nơi chưa bố trí lực lượng
công an chính qui);
+ Chỉ huy trưởng quân sự;
+ Văn phòng - thống kê;
+ Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường
(đối với phường, thị trấn), địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối
với xã);
+ Tài chính - kế toán;
+ Tư pháp - hộ tịch;
+ Văn hóa - xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, làm việc ở cấp
cơ sở còn có một lực lượng lao động đặc biệt. Đó là những “ công chức dự bị” của
các cấp cao hơn được đưa về làm việc tại cơ sở. Ngoài ra còn có một lực lượng
cán bộ, công chức về tăng cường cho cơ sở.
- Những
người hoạt động không chuyên trách
Đây là nhóm người làm việc giống như những
nhóm người được bầu để giữ các vị trí đứng đầu các tổ chức chính trị, chính trị
- xã hội nhưng họ đảm nhiệm vị trí “cấp phó”. Đồng thời, họ cũng là những người
làm việc chuyên môn nhưng không thường xuyên và không được gọi là công chức. Gồm:
+ Trưởng ban tổ chức Đảng
+ Chủ nhiệm Uỷ ban kiểm tra Đảng
+ Trưởng Ban Tuyên giáo
+ Người phụ trách văn phòng đảng uỷ;
+ Phó trưởng ban công an (nơi chưa bố trí
lực lượng công an chính qui)
+ Phó chỉ huy trưởng quân sự;
+ Kế hoạch - giao thông - thuỷ lợi - nông,
lâm, ngư, diêm nghiệp;
+ Người phụ trách lao động - thương binh
và xã hội;
+ Người phụ trách dân số - gia đình và trẻ
em;
+ Người phụ trách thủ quỹ - văn thư - lưu
trữ
+ Người phụ trách phụ trách đài truyền
thanh
+ Người phụ trách quản lý nhà văn hoá;
+
Phó chủ tịch Ủy ban mặt trận Tổ quốc; phó các đoàn thể cấp xã bao gồm:
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu
chiến binh;
+ Chủ tịch Hội Người cao tuổi, Chủ tịch Hội
Chữ thập đỏ.
Ngoài ra còn có những người hoạt động
không chuyên trách ở thôn và tổ dân phố gồm: Bí thư chi bộ thôn; trưởng thôn;
công an viên ở thôn và bí thư chi bộ, tổ trưởng dân phố ở phường, thị trấn.
Câu hỏi và liên hệ thực tiễn:
Phân
biệt giữa cán bộ cấp xã và công chức cấp xã? Chính quyền cơ sở nơi anh chị công
tác có tổ chức đội ngũ cán bộ, công chức đúng chức danh và số lượng theo qui định
của Luật không?
1.2.
Hệ thống pháp luật nhà nước quy định chung về cán bộ, công chức và CBCC cơ sở
1.2.1. Hệ thống văn bản pháp luật nhà nước
liên quan đến cán bộ, công chức nói chung
Chiến lược Cán bộ của Đảng ban hành kèm
theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII và Kết luận của Hội nghị lần thứ 9
Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán
bộ từ nay đến năm 2020
là những văn kiện hết sức quan trọng định hướng cho Nhà nước ban hành các văn bản
pháp luật cơ bản và thiết thực để cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm, chủ
trương của Đảng về công tác cán bộ, công chức trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Hệ thống các VBPL nhà nước liên quan đến
cán bộ, công chức hiện nay ở nước ta bao gồm:
- Luật Cán bộ, công chức (2008);
- Các Nghị định của Chính phủ, bao gồm:
+ Nghị định số
06/2010/NĐ-CP ban hành ngày 25/01/2010 của Chính
phủ về việc quy định những người là công chức.
+ Nghị
định số 18/2010/NĐ-CP ban hành ngày 05/3/2010 của Chính Phủ quy định về đào tạo,
bồi dưỡng công chức.
+ Nghị
định số 21/2010/NĐ-CP ban hành ngày 08/3/2010 của Chính phủ quy định về quản lý
biên chế công chức.
+ Nghị định số
24/2010/NĐ-CP ban hành ngày 15/3/2010 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử
dụng và quản lý công chức. (Thay thế Nghị định 115/2003/ NĐ - CP ngày
10/10/2003 về chế độ công chức dự bị; thay thế Nghị định 117/2003 về tuyển dụng,
sử dụng và quản lý cán bộ công chức trong các cơ quan nhà nước).
+
Nghị định số 93/2010/NĐ-CP ban hành ngày 31/8/2010 của Chính phủ về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và
quản lý công chức.
+ Nghị định số 46/2010/NĐ-CP ban hành ngày 27/4/2010 của Chính phủ quy định
về thôi việc và thủ tục nghỉ hưu đối với công chức.
+ Nghị định số 35/2005/NĐ-CP ban hành
ngày 17/3/2005 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức
+ Nghị định số
34/2011/NĐ-CP ban hành ngày
17/5/2011 của Chính phủ về xử lý kỷ luật đối với công chức.
+ Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ban hành
ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức,
viên chức và lực lượng vũ trang.
+ Nghị định số
76/2009/NĐ-CP ban hành ngày 15/9/2009 của Chính phủ về sửa đổi Nghị định
204/2004/NĐ-CP về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực
lượng vũ trang.
1.2.2. Văn bản pháp luật liên quan trực tiếp
đến cán bộ, công chức cơ sở
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp
hành Trung ương khóa IX (ngày 18/3/2002)
đã đề cập đến một cách toàn diện các vấn đề liên quan đến đội ngũ cán bộ
công chức làm việc ở cơ sở. Đây là văn kiện quan trọng về đổi mới và nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn;đánh giá thực trạng
của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở và xác định tất yếu phải đặt đúng vị
trí của đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở trong hệ thống chính trị Việt Nam. Cụ
thể hóa hóa văn kiện này của Đảng, Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật
sau:
- Nghị định số
114/2003/NĐ - CP ban hành ngày 10/10/2003 của Chính Phủ quy định về cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn.
- Thông tư số
03/2004/TT- BNV ban hành ngày 16/01/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về hướng dẫn
thực hiện Nghị định 114/2003//NĐ-CP
- Quyết định số 04/2004/QĐ - BNV ban hành
ngày 16/01/2004 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành qui định tiêu chuẩn cụ
thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn.
- Nghị định số 92/2009/ NĐ-CP ban
hành ngày 22/10/2009 của Chính phủ quy định
về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở
xã, phường, thị trấn (cấp xã) và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã.
- Thông tư liên
tịch số 03/2010/TTLT- BNV- BTC- BLĐTBXH ban hành ngày 27/5/2010 của Bộ Nội vụ,
Bộ Tài chính và Bộ Lao động thương binh và xã hội về hướng dẫn thực hiện Nghị định
92/2009/NĐ-CP
- Nghị định số 29/2013/NĐ-CP ban hành ngày 25/6/2013 của Chính phủ về sửa
đổi, bổ sung một số điều Nghị định 92/2009/NĐ – CP.
- Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ban
hành ngày 05/12/2011 của Chính phủ về công chức xã, phường, thị trấn.
- Thông tư số 06/2012/TT-BNV ban hành ngày 30/10/2012 của Bộ
Nội vụ về hướng dẫn thực hiện Nghị định 112/2011/NĐ-CP.
1.3. Vai trò của cán bộ, công chức cơ sở
1.3.1. Là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân
Đội
ngũ cán bộ công chức cấp xã đều trưởng thành từ thực tiễn sản xuất và trực tiếp
gắn bó với đời sống của nhân dân ở địa phương. Họ có mối liên hệ mật thiết, thường
xuyên với quần chúng nhân dân, trực tiếp giải quyết mọi tình huống phát sinh ở
cơ sở. Hơn ai hết, họ là những người am hiểu đặc điểm tình hình địa phương, thấu
hiểu những mong muốn, tâm tư, nguyện vọng của người dân một cách nhanh nhất,
chính xác nhất. Cán bộ, công chức cấp xã là những người người trực tiếp đem các
chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước giải thích cho nhân dân
hiểu rõ và thi hành. Thông qua việc nắm bắt tình hình triển khai thực hiện chủ
trương, đường lối và chính sách, pháp luật, cán bộ công chức cơ sở là những người
phát hiện ra những điểm còn hạn chế, thiếu sót của các chính sách khi triển
khai trong thực tế đời sống, đồng thời là kênh để chuyển tải những mong muốn,
nguyện vọng của nhân dân lên với Đảng và
Nhà nước để từ đó Đảng và Nhà nước có sự điều chỉnh, bổ sung cho đúng, phù hợp
với thực tiễn và thuận với lòng dân.
1.3.2. Vai trò trong quản lí và tổ chức công
việc của chính quyền cơ sở
Cán bộ, công chức cấp xã có vai trò quan
trọng trong quản lí và tổ chức công việc của chính quyền cơ sở, phát triển kinh
tế- xã hội, bảo đảm lợi ích của nhân dân địa phương. Tùy theo vị trí, chức danh
của mình, mỗi cán bộ, công chức cấp xã sẽ đảm nhận và thực hiện những nhiệm vụ
nhất định, chẳng hạn: Công chức Trưởng Công an xã sẽ có nhiệm vụ tham mưu cho
lãnh đạo chính quyền xã và có nhiệm vụ bảo đảm, quản lí về tình hình an ninh trật
tự xã hội trên địa bàn xã, công chức văn hóa xã hội sẽ đảm nhận các hoạt động để
quản lí và phát triển lĩnh vực văn hóa – xã hội ở địa phương...Việc thực thi
công vụ của họ có vai trò trực tiếp bảo đảm kỷ cương phép nước tại cơ sở, bảo vệ
các quyền tự do, dân chủ, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân thông qua việc xử lý, đấu tranh ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật kịp
thời, hiệu quả, góp phần ổn định tình hình an ninh - chính trị, trật tự an toàn
xã hội tại từng địa bàn thôn, xóm.
Để thực hiện tốt vai trò này đòi hỏi đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải có khả năng tổ chức, sử dụng, tập hợp mọi người
cùng tham gia hoạt động; phải có khả năng xử lý các tình huống phát sinh ở cơ sở,
đó là các tình huống về tài chính, ví dụ: giải tỏa, đền bù đất đai; các tình huống
về thiên tai, địch họa; về xử lí vi phạm pháp luật, những va chạm xóm giềng,
dòng tộc hay những tình huống nảy sinh khi ra những quyết định sai trái với cấp
trên… Đồng thời cán bộ công chức phải có khả năng kiểm tra, đánh giá hoạt động
của mình, của đồng nghiệp và khả năng tổng kết việc tổ chức thực hiện các chủ
trương, chính sách để góp phần quản
lí và tổ chức công việc của chính quyền cơ sở.
1.3.3.
Vai trò trong xây dựng, hoàn thiện bộ máy chính quyền cơ sở, hoạt động thi hành
nhiệm vụ, công vụ.
- Trong xây dựng bộ máy của chính quyền cơ
sở, chính đội ngũ cán bộ công chức là những người bố trí, sắp xếp sao cho cơ cấu
tổ chức của chính quyền trở nên khoa học, tinh gọn, hợp lý, phân công đúng người,
đúng việc, không có sự cồng kềnh, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền
giữa các bộ phận, phòng ban. Tổ chức bộ máy ở cơ sở vững mạnh là nền tảng, tiền
đề để phát huy năng lực của đội ngũ cán bộ công chức đồng thời góp phần kiện
toàn và hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước.
- Trong hoạt động thi hành nhiệm vụ công vụ,
cán bộ công chức cơ sở là những người trực tiếp tổ chức thực hiện và góp phần
quyết định sự thành bại của đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước
trong thực tiễn đời sống. Chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước có được thực thi tốt hay không, có hiệu quả hay không một phần quyết
định là ở cấp xã.Cán bộ, công chức cấp xã luôn phát huy những vai trò của mình
trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước, của các địa phương; trực tiếp với
quần chúng, tạo dựng phong trào cách mạng quần chúng. Hiệu lực, hiệu quả của
chính quyền cấp xã xét đến cùng chính là được quyết định bởi phẩm chất và năng
lực thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ công chức cấp xã.
(Liên hệ: Vai trò của đội ngũ cán bộ, công
chức cơ sở trong hoạt động quản lí nhà nước ở thực tiễn địa phương học viên
công tác? )
2. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ QUẢN LÍ CÁN BỘ CÔNG CHỨC CƠ SỞ
2.1.1. Các nguyên tắc chung về quản lí cán bộ công chức
- Quản lí cán bộ
công chức phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước và điều
lệ của các tổ chức chính trị - xã hội
Sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện thông qua hệ
thống các quan điểm và phương thức quản lý cán bộ công chức của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
-
Về quan điểm của Đảng
- Một là, cán bộ là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Phải
thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ gắn với
phương thức lãnh đạo của Đảng;
Đây là quan điểm rất mới được bổ sung so với Chiến
lược cán bộ trước đây. Quan điểm thứ nhất này xác định rõ vai trò, vị trí của
đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ trong sự nghiệp cách mạng và công tác xây
dựng Đảng
Hai là, phải xuất phát từ chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm thực
hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Ba là, quán triệt quan điểm giai cấp công
nhân của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, truyền thống yêu nước, đại đoàn
kết và gắn bó mật thiết với nhân dân; tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng
dụng nhân tài, không phân biệt Đảng viên hay người ngoài Đảng, dân tộc, tôn
giáo, người ở trong nước hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
- Bốn là, gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ
với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế chính sách. Thực hiện tốt công tác qui
hoạch, đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ. Trong điều kiện hiện nay còn phải gắn
công tác cán bộ với việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”; tích cực đẩy mạnh phòng chống
tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo
đức, tư tưởng.
- Năm là, thông qua hoạt động thực tiễn và
phong trào cách mạng của nhân dân, nâng cao trình độ dân trí, phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ.
Phải dựa vào nhân dân để phát hiện, kiểm tra và giám sát cán bộ;
- Sáu là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác
cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đi đôi với
phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ
thống chính trị.
+ Về phương thức lãnh đạo của Đảng
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản
lí cán bộ công chức là các cách thức, biện pháp Đảng tác động lên các khâu của
công tác cán bộ nhằm đạt mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài, có cơ
cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, duy trì sự ổn định trong bố trí, sử dụng cán bộ,
công chức và sự đảm
bảo sự chuyển tiếp vững vàng liên tục giữa các thế hệ cán bộ công chức, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ cho từng thời kỳ cách mạng.
Các phương thức lãnh đạo chủ yếu của Đảng đối với công tác
quản lí CBCC bao gồm:
·
Đảng đề ra các chính sách, chủ
trương, đường lối, chiến lược về cán bộ công chức.
·
Đảng bồi dưỡng, huấn luyện đội ngũ
cán bộ công chức có phẩm chất, năng lực và giới thiệu những cán bộ, đảng viên
ưu tú vào làm việc trong hệ thống chính trị.
·
Đảng lãnh đạo bằng phương pháp đặc
trưng riêng đó là phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục,
bằng chính hành động gương mẫu của các đảng viên ĐCS.
·
Đảng lãnh đạo thông qua các tổ chức
đảng (ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy) và đảng viên trong các cơ quan nhà
nước; kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành, các cấp
bằng các biện pháp và phương tiện khác nhau.
Nhà nước là chủ thể thực hiện hoạt động quản lí cán bộ công
chức một cách cụ thể, rõ nét nhất thông qua việc thể chế hóa các quan điểm,
chính sách của Đảng về công tác quản lí cán bộ công chức thành hệ thống luật
pháp. Đồng thời tổ chức, phân công cho các các cơ quan có chức năng, thẩm quyền
như Chính Phủ, Bộ Nội vụ, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các
cấp…chịu trách nhiệm xây dựng các nội dung, chương trình cụ thể thực hiện quản
lí cán bộ công chức.
Bên cạnh việc tuân thủ pháp luật chung của
nhà nước, cán bộ, công chức làm việc còn chịu sự quản lí theo những quy định,
điều lệ của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội mà mình tham gia.
-
Kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế
Xác định vị trí việc
làm và cơ cấu công chức được pháp luật xác định là nhiệm vụ bắt buộc đối với
các bộ, ngành, địa phương để thực hiện đổi mới cơ chế quản lý cán bộ, công
chức. Vị trí việc làm là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch
công chức để xác định biên chế và bố trí công chức trong cơ quan, tổ chức, đơn
vị. Ý nghĩa của việc xác định vị trí việc làm là nhằm sắp xếp lại đội ngũ cán
bộ, công chức; phát hiện những chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của các vị trí
việc làm, các cơ quan, tổ chức; phục vụ hiệu quả cho hoạt động tuyển dụng, bố
trí sử dụng, đào tạo bồi dưỡng công chức, đánh giá quy hoạch cán bộ và cải cách
tiền lương hiệu quả.
Biên
chế là số người làm việc trong cơ quan, tổ chức của nhà nước để thực hiện chức
năng, nhiệm vụ được giao và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền (hiện nay là Bộ Nội vụ và các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc chính phủ, UBND các tỉnh, tphố trực thuộc trung ương) phê duyệt và
giao, làm căn cứ cấp kinh phí hoạt động thường xuyên hàng năm.
Việc xác định biên chế công chức phải căn
cứ vào các yếu tố khác như tính chất, đặc điểm, mức độ phức tạp và quy mô, phạm
vi, đối tượng quản lý của ngành, lĩnh vực; Mức độ hiện đại hoá công sở, trang
thiết bị, phương tiện làm việc và ứng dụng công nghệ thông tin; Thực tế tình
hình quản lý biên chế công chức được giao của cơ quan, tổ chức, đơn vị…. Đối với
cơ quan, tổ chức ở địa phương, việc xác định biên chế công chức còn phải căn cứ
vào: Quy mô dân số, diện tích tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương; Số lượng đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; Đặc điểm an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Việc quản lý cán bộ, công chức dựa trên cơ
sở kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh với vị trí việc làm tạo cơ sở khoa học, thể hiện tính thực tiễn cao, giúp xác định chỉ tiêu,
số lượng người làm việc một cách chính xác, phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của từng cơ
quan, đơn vị được cấp có thẩm quyền quy định. Thực hiện nguyên tắc này giúp xóa bỏ cơ chế "xin -
cho" trong quản lý biên chế cũng như bảo đảm thực hiện có hiệu quả, đúng
mục đích công tác tổ chức thi tuyển, thi nâng ngạch, đánh giá, sử dụng, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
-Thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ trách nhiệm cá nhân và phân công,
phân cấp rõ ràng.
- Trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, biểu hiện cụ
thể của nguyên tắc đó chính là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Nguyên tắc này đòi hỏi toàn bộ những vấn đề cơ bản, hệ trọng, những chủ trương,
phương hướng, chiến lược liên quan đến công tác cán bộ, công chức phải được dân
chủ thảo luận trong tập thể các cơ quan lãnh đạo từ cao tới thấp theo phạm vi,
quyền hạn đã được xác định. Cấp trên có quyền và trách nhiệm tham gia vào việc quyết định theo đa số
những vấn đề về chính sách, lựa chọn, phê chuẩn,
bổ nhiệm,
quy hoạch, bố trí, luân chuyển, đề bạt, đánh giá, khen thưởng, xử lý kỷ luật CBCC… trong phạm vi thẩm quyền của mình theo quy định của
pháp luật.
- Tính dân chủ thể hiện ở việc mọi vấn đề hệ trọng liên
quan đến cán bộ công chức đều được bàn bạc, thảo luận cho mọi người cùng biết,
cùng tham gia đóng góp.Tính công khai, tính tập thể được thực hiện một cách rộng
rãi và mạnh mẽ như: tổ chức lấy ý kiến nhận xét, đánh giá của nhiều người, nhiều
bộ phận đối với các cán bộ, công chức hay ở việc tiến hành bầu cử người lãnh đạo,
quản lý… Nội dung các khâu trong công tác cán bộ được chuẩn bị kỹ, tiếp
thu và lắng nghe ý kiến của cán bộ, đảng viên và quần chúng, không áp đặt ý kiến
cá nhân, định kiến hoặc phân biệt với các ý kiến thuộc về thiểu số. Những ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu, đệ
trình lên cơ quan cấp trên có thẩm quyền xem xét, quyết định.
- Mặc dù tập thể lãnh đạo
nhưng khi tổ chức thực hiện thì phải có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, có người
phụ trách. Cá nhân phụ trách là khâu tiếp nối của quá trình lãnh đạo tập thể.
Người được phân công phụ trách phải đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân, tích
cực chủ động triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao và phải chịu trách nhiệm
trước tập thể, chịu sự kiểm tra, giám sát của tập thể. Việc gì cá nhân không
thực hiện được thì phải giao cho tập thể làm và phải có người đứng đầu tập thể
đó chịu trách nhiệm.
- Chế độ trách nhiệm cá nhân của cán bộ,
công chức là những quy định về chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của người
cán bộ, công chức phải thực hiện trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ, nếu
không làm tốt hoặc vi phạm thì bị xử lý theo quy định của pháp luật. Chế độ
trách nhiệm đó được thể hiện qua việc chấp hành các quy định trong chuyên môn
nghiệp vụ cũng như về đạo đức nghề nghiệp mà qua đó thể hiện năng lực, phẩm chất
của người cán bộ, công chức vừa thể hiện bản chất nhà nước phục vụ nhân dân. Do
vậy, để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và thực hiện đầy đủ trách nhiệm
của mình đòi hỏi người CBCC không chỉ là người giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có
phẩm chất đạo đức tốt mà còn phải là người chấp hành nghiêm các quy định của kỷ
luật nhà nước
- Phân
công, phân cấp trong quản lí cán bộ, công chức tức là phải có sự phân định rõ
ràng, cụ thể cả nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và các điều kiện về tài chính,
phương tiện thực hiện cho chính quyền cấp dưới trong việc tuyển dụng, bố trí, sắp
xếp và quản lý cán bộ, công chức.
Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ trách
nhiệm cá nhân và phân công, phân cấp rõ ràng sẽ góp phần đẩy lùi bệnh hình thức,
quan liêu cũng như nguy cơ chuyên quyền, độc đoán trong công tác cán bộ công chức;
xác định rõ trách nhiệm của từng cá nhân và từng cấp khi được phân công thực hiện
nhiệm vụ, tạo điều kiện lựa chọn được cán bộ đúng tiêu chuẩn, có phẩm chất và
năng lực, hoàn thành tốt công tác được giao.
- Việc
sử dụng, đánh giá, phân loại cán bộ, công chức phải dựa trên phẩm chất chính trị,
đạo đức và năng lực thi hành công vụ gắn liền với phát triển đội ngũ cán bộ,
công chức
- Sử dụng, đánh giá và phân loại cán bộ công chức có mối
quan hệ tác động qua lại, chặt chẽ với nhau. Muốn phân loại và sử dụng tốt cán
bộ công chức, trước hết phải đánh giá chính xác, trung thực từng cán bộ, công
chức. Phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực thi hành công vụ là những tiêu
chí cơ bản, quan trọng để đánh giá, nhận xét cán bộ. Đánh giá là hoạt động cần
thiết nhằm làm rõ về về lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức ,
trình độ chuyên môn và năng lực
thực thi công vụ khi cán bộ, công chức được phân công thực hiện nhiệm vụ. Có thể
liệt kê một số năng lực như năng lực lãnh đạo, điều hành; năng lực soạn thảo
văn bản; năng lực xây dựng chính sách; năng lực phối hợp trong công vụ; năng lực
giao tiếp, ứng xử trong hành chính…Kết quả đánh giá là căn cứ để thực hiện các
hoạt động đối với cán bộ công chức như: Phân loại, bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi
dưỡng, khen thưởng, kỷ luật…Thực hiện tốt các chính sách về nhân sự một mặt góp
phần tạo động lực cho cán bộ công chức phấn khởi, tiếp tục cống hiến, mặt khác
giúp cho cán bộ công chức tu dưỡng, hoàn thiện bản thân. Do đó, công tác đánh
giá phải được thực hiện một cách công minh, khách quan, trung thực, chính xác,
dân chủ, tránh đánh giá hình thức, mang tính chủ quan, thiên vị.
- Quản lí cán bộ, công chức là nhằm phát
triển đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước và quản lí xã hội.
Vì vậy, quản lý phải luôn gắn liền với đào tạo, bồi dưỡng, làm cho đội ngũ cán
bộ công chức vững vàng về lập trưởng tư tưởng, phẩm chất đạo đức trong sạch, am
hiểu, tinh thông về chuyên môn, thái độ phục vụ công vụ ngày càng chuyên nghiệp.
Đồng thời quản lí cần phải tạo ra các cơ hội để cán bộ công chức được thể hiện,
đóng góp, cống hiến sức mình cho nền công vụ. Trên cơ sở ghi nhận các thành tích
của cán bộ, công chức, tạo cho CBCC được thăng tiến theo chức nghiệp, công trạng
nhằm khích lệ, động viên và phát huy tinh thần làm việc của cán bộ, công chức.
-Thực
hiện bình đẳng giới
Bình đẳng giới là việc phụ nữ và nam giới
được coi trọng như nhau, cùng được công nhận và có được vị thế bình đẳng. Họ đều
có các điều kiện phù hợp để phát huy đầy đủ tiềm năng, có các cơ hội như nhau để
tham gia đóng góp và thụ hưởng bình đẳng trong quá trình phát triển. Có các quyền
tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng.
Luật Bình đẳng giới gồm 6
chương, 44 điều được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kì họp thứ 10 thông
qua vào ngày 29 tháng 11 năm 2006, có hiệu
lực thi hành ngày 01 tháng 7 năm 2007 là đạo
luật có giá trị pháp lý cao nhất quy định rõ các nội dung về bình đẳng giới
trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong hoạt động công vụ, đối với quản lí CBCC cần
thực hiện một số nguyên tắc sau đây:
- Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ
tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc về việc làm, tiền
công, tiền thưởng, BHXH, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác.
- Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ
tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh trong các ngành, nghề có tiêu
chuẩn chức danh.
- Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc Hội, đại biểu
Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới;
- Bảo đảm
tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp
với các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
Ví dụ: Các cán bộ, công
chức là nữ giữ các vị trí, chức danh chủ chốt trong hệ thống chính trị Việt Nam
hiện nay?
Câu hỏi: Liên hệ các nguyên tắc trên trong thực tiễn
quản lí cán bộ công chức hiện nay ở nước ta và ở cơ quan anh chị đang công
tác?)
(Ghi chú: Học viên tham khảo điều 5 Luật Cán bộ công chức; Chiến lược cán bộ của Đảng ban hành kèm theo Nghị quyết
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành trung ương khóa VIII)
2.1.2. Các
nguyên tắc cụ thể về quản lý cán bộ, công chức cơ sở
- Các qui định của pháp luật
về nguyên tắc quản lí cán bộ công chức cơ sở
Hiện nay, chúng ta chưa ban hành các
nguyên tắc riêng về quản lý cán bộ công chức cơ sở. Vì vậy, các nguyên tắc quản
lí cán bộ, công chức nói chung được qui định tại điều 5 của Luật Cán bộ, công
chức năm 2008 đều áp dụng cho cả cán bộ công
chức cấp cơ sở
Nội dung quản lý
cán bộ, công chức được quy định trong Luật cán bộ, công chức. Đó là những nội
dung nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng được nhiệm vụ
trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội. Bao gồm những
nội dung cơ bản sau:
- Ban hành và tổ
chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức.
- Xây dựng kế hoạch,
quy hoạch cán bộ, công chức.
- Quy định chức
danh và cơ cấu cán bộ.
- Quy định ngạch,
chức danh, mã số công chức; mô tả, quy định vị trí việc làm và cơ cấu công chức
để xác định số lượng biên chế.
- Các công tác
khác liên quan đến quản lí cán bộ, công chức
Do CBCC của Việt Nam bao gồm nhiều nhóm
người làm việc trong các môi trường thể chế khác nhau nên quy trình cũng như nội
dung quản lí cán bộ, công chức sẽ không giống nhau. Cụ thể:
- Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản
Việt Nam sẽ ban hành nội dung quản lý cán bộ, công chức làm việc trong các tổ
chức chính trị; các đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng.
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ quy định nội
dung quản lí cán bộ công chức làm việc trong các tổ chức quyền lực nhà nước.
-Chính Phủ quy định
cụ thể các nội dung quản lý cán bộ công chức trong hệ thống hành chính nhà nước.
- Các qui định của điều lệ đối với các tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội về nội dung quản lí cán bộ công chức cơ sở
Cán bộ, công chức làm việc trong các tổ chức
chính trị, chính trị - xã hội ngoài những điều quy định trong văn bản pháp luật
nhà nước có liên quan, họ còn chịu sự quản lí theo những quy định của các tổ chức
chính trị, chính trị - xã hội.
Nội dung quản lý cán bộ, công chức của các
tổ chức chính trị, chính trị - xã hội:
- Không được trái với pháp luật nhà nước
quy định;
- Không được quy định các tiêu chuẩn thấp
hơn của pháp luật nhà nước quy định.
Đồng
thời, pháp luật nhà nước không cấm những quy định mang tính đặc trưng của các tổ
chức đó.
Ví dụ: Đảng viên phải
tuân thủ theo quy định của điều lệ Đảng, không phân biệt đảng viên có phải là
cán bộ, công chức hay không. Do đó, nếu cán bộ, công chức là đảng viên, cần
tuân thủ các quy định của Đảng. Và tất yếu nếu vi phạm các quy định đó, trước hết
bị xử lý theo kỷ luật của Đảng.
2.2.
Nội dung quản lý cán bộ, công chức cơ sở
2.2.1. Tổ chức thực hiện văn bản quy phạm
pháp luật về cán bộ, công chức
Các văn bản quy phạm pháp luật sau khi ban
hành cần phải được thực hiện trong cuộc sống thì mới có ý nghĩa. Mục đích của
việc ban hành văn bản pháp luật chỉ có thể đạt được khi các quy định pháp luật
do nhà nước đặt ra được các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện một cách
chính xác, đầy đủ. Do vậy, vấn đề quan trọng là phải tổ chức thực hiện pháp luật,
làm cho những quy định pháp lý được triển khai sâu rộng, đồng bộ và tuân thủ
nghiêm túc trong đời sống xã hội.
Việc thực hiện chính xác, đầy đủ các quy định
của pháp luật về cán bộ, công chức là mối quan tâm không chỉ từ phía nhà nước
mà còn từ phía công dân và các tổ chức, trong đó trực tiếp nhất là Luật Cán bộ,
công chức năm 2008 đã qui định rất cụ thể về nghĩa vụ, quyền của cán bộ, công
chức và điều kiện bảo đảm thi hành công vụ. Cán bộ công chức trước hết cần tự
giác thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh những điều pháp luật đã qui định và đòi
hỏi pháp luật cũng phải được các tổ chức, các cá nhân khác tôn trọng, thực hiện
chính xác và đầy đủ.
Ví dụ: Các văn bản có liên quan trực tiếp
đến CBCCCS cần được phổ biến, quán triệt để đội ngũ CBCC ở cơ sở nắm bắt các
qui định rõ ràng và triển khai thực hiện như:
- Nghị định số 114/2003/NĐ - CP ban hành
ngày 10/10/2003 của Chính Phủ quy định về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn
- Nghị định số 92/2009/ NĐ-CP ban
hành ngày 22/10/2009 của Chính phủ quy định
về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở
xã, phường, thị trấn (cấp xã) và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã.
- Nghị định số 29/2013/NĐ-CP ban hành ngày 25/6/2013 của Chính phủ về sửa
đổi, bổ sung một số điều Nghị định 92/2009/NĐ – CP.
- Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ban
hành ngày 05/12/2011 của Chính phủ về công chức xã, phường, thị trấn.
(Câu hỏi
liên hệ thực tế: Việc tổ chức thực
hiện các văn bản qui phạm pháp luật về cán bộ, công chức cơ sở trong thực tiễn
của chính quyền nơi anh, chị công tác hiện nay như thế nào?)
2.2.2. Xây dựng kế hoạch, quy hoạch cán bộ,
công chức theo sự lãnh đạo của Đảng, theo các chức danh và cơ cấu cán bộ, công
chức do pháp luật quy định
Xây dựng qui hoạch, kế
hoạch cán bộ, công chức là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ của chính
quyền cơ sở. Qui hoạch nhằm chủ động tạo nguồn cán bộ, công chức dồi dào; khắc
phục tình trạng hẫng hụt trong đội ngũ cán bộ, công chức, bảo đảm tính kế thừa,
phát triển và sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, công
chức, giữ vững đoàn kết nội bộ và sự ổn định chính trị ở địa phương. Trên cơ sở
đó làm căn cứ để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức đảm nhận các chức
danh lãnh đạo, quản lý và các vị trí chuyên môn vững vàng về chính trị, trong
sáng về đạo đức, có trình độ và năng lực, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu,
đáp ứng yêu cầu của tình hình phát triển. Do đó, thực hiện tốt các chính sách
và biện pháp để tạo nguồn cán bộ, công chức, đặc biệt là cán bộ, công chức lãnh
đạo, đảm bảo sự chủ động và ổn định về nhân sự của chính quyền địa phương cơ sở
là yêu cầu quan trọng và cần thiết. Theo đó:
- Quy hoạch cán bộ, công chức phải thực sự
gắn kết với các khâu khác trong công tác cán bộ như: Nhận xét, đánh giá; đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển, sắp xếp, bố trí, sử dụng CBCC
- Thực hiện quy hoạch “động” và “mở”: một
chức danh có thể quy hoạch nhiều người và một người có thể quy hoạch nhiều chức
danh; quy hoạch phải luôn được xem xét, đánh giá để bổ sung, điều chỉnh hàng
năm, đưa ra khỏi quy hoạch những người không còn đủ tiêu chuẩn và điều kiện, bổ
sung vào quy hoạch những nhân tố mới có triển vọng.
- Quy trình quy hoạch phải bảo đảm mở rộng
dân chủ, khách quan trong việc phát hiện nguồn, có sự tham gia của cán bộ, đảng
viên, quần chúng nhân dân, các đoàn thể trong việc nhận xét, đánh giá và giới
thiệu cán bộ công chức; lấy kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ thường xuyên và
định kỳ làm cơ sở để lựa chọn cán bộ đưa vào quy hoạch; bảo đảm quyền tập trung
của tập thể ban thường vụ đảng ủy cơ sở, lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã
hội ở xã trong việc quy hoạch cán bộ; đồng thời có cơ chế để nhân dân, mặt
trận, các đoàn thể giám sát việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ.
- Quy trình phải đạt được cơ cấu cán bộ hợp
lý: bố trí kết hợp giữa các độ tuổi, thực hiện trẻ hoá, độ tuổi trung bình khoá
sau thấp hơn khoá trước; có tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ xuất thân công
nông thích đáng; ở những nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số cần có tỷ lệ
hợp lý cán bộ dân tộc thiểu số; Quy hoạch cán bộ cần đảm bảo tính khả thi, thực
tế, kiên quyết khắc phục tình trạng quy hoạch cán bộ mang tính hình thức.
Trên cơ sở quy hoạch cán bộ cần xây dựng các
kế hoạch sau đây:
- Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để không ngừng
nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ
cách mạng, nhất là đối với các đồng chí còn chưa đủ các tiêu chuẩn cần thiết để
giữ các chức danh được quy hoạch.
- Kế hoạch luân chuyển để đào tạo, rèn luyện
cán bộ nguồn quy hoạch theo tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 25-01-2002
của Bộ Chính trị về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý.
- Kế hoạch sắp xếp, bố trí, điều chuyển cán
bộ nguồn quy hoạch vào các vị trí phù hợp, để qua công tác thực tế các đồng chí
đó được rèn luyện, thử thách, tạo uy tín và vị thế cần thiết, chuẩn bị cho việc
giới thiệu bầu cử, bổ nhiệm vào các chức danh quy hoạch.
Việc cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng, thực
hiện luân chuyển, bổ nhiệm hoặc giới thiệu bầu cử cần căn cứ vào quy hoạch cán
bộ.
(Câu hỏi:
Ở cơ quan anh,chị công tác có xây dựng qui hoạch, kế hoạch cán bộ công chức
không? Đánh giá việc lập qui hoạch, kế hoạch cán bộ công chức ở cơ quan anh chị
hiện nay?)
2.2.3. Mô tả vị trí, việc làm của cán bộ,
công chức trên cơ sở số lượng biên chế
Đổi mới phương thức quản lý cán bộ công chức
trong các cơ quan nhà nước là một nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước ta quan tâm nhằm
phát triển và hoàn thiện nền công vụ. Trên cơ sở chức danh, tiêu chuẩn, vị trí
việc làm và cơ cấu tổ chức đã được phê duyệt, từng cơ quan, đơn vị tổ chức rà
soát lại đội ngũ công chức, đối chiếu với tiêu chuẩn cụ thể để bố trí lại cho
phù hợp. Xác định chính xác số lượng các vị trí việc làm cần phải có trong mỗi
cơ quan, tổ chức là vấn đề rất khó và phức tạp, cần phải dựa trên các phương
pháp khoa học. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, vị trí việc làm trong các cơ quan
hành chính nhà nước chưa được xây dựng. Để thực hiện Luật Cán bộ, công chức cần
thiết phải xác định vị trí việc làm thông qua bản mô tả công việc, từ đó các
yêu cầu về tính phức tạp của công việc, yêu cầu về phẩm chất, trình độ, năng lực
sẽ hình thành lên cơ cấu ngạch công chức và các chức danh lãnh đạo, quản lý
tương ứng cần bổ nhiệm. Đây cũng là căn cứ để tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm,
đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, ….công chức. Vì vậy, mô tả vị trí việc
việc làm và cơ cấu công chức trên cơ sở số lượng biên chế là rất cần thiết để
triển khai có hiệu quả việc đổi mới cơ chế quản lý công chức được quy định tại
Luật Cán bộ, công chức năm 2008.
(Ghi
chú: Học viên tham khảo Khoản 2 Điều 5
Luật Cán bộ, công chức 2008; Khoản 3 Điều 4, điểm d khoản 1 Điều 65, khoản 2 Điều
67 và các quy định tại khoản 2 Điều 48 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày
15-3-2010 của Chính phủ).
2.2.4.
Các công tác khác liên quan đến quản lý CBCC theo pháp luật của Nhà nước
Ngoài các nội dung trên, việc quản lý cán
bộ, công chức còn bao gồm các công tác khác liên quan đến quy định tại Luật Cán
bộ, công chức như: tuyển dụng, sử dụng, bố trí, đào tạo, bồi dưỡng, điều động,
biệt phái bổ nhiệm, từ chức, miễm nhiệm, luân chuyển, đánh giá, khen thưởng, kỷ
luật, chế độ, tiền lương…
(Ghi chú: Học viên tham khảo chương VI Luật Cán bộ, công chức;
Điều 23, Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về cán bộ công chức xã, phường,
thị trấn qui định về nội dung quản lý cán bộ, công chức cấp cơ sở)
Post a Comment